



















Study with the several resources on Docsity
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Prepare for your exams
Study with the several resources on Docsity
Earn points to download
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Community
Ask the community for help and clear up your study doubts
Discover the best universities in your country according to Docsity users
Free resources
Download our free guides on studying techniques, anxiety management strategies, and thesis advice from Docsity tutors
NHỮNG NỘI DUNG CỐT LÕI CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ GIẢI PHÁP, TRÁCH NHIỆM BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG
Typology: Study Guides, Projects, Research
1 / 27
This page cannot be seen from the preview
Don't miss anything!
(Tài liệu kèm theo Kế hoạch số 46 - KH/BTGTU, ngày 08- 6 - 2021 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy) NHỮNG NỘI DUNG CỐT LÕI CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ GIẢI PHÁP, TRÁCH NHIỆM BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRONG TÌNH HÌNH MỚI Nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về những nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; nhận diện rõ những luận điệu xuyên tạc, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, qua đó góp phần thực hiện tốt Nghị quyết số 35 - NQ/TW, ngày 22- 10 - 2018, của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy biên soạn, giới thiệu những nội dung cơ bản để tuyên truyền, giáo dục như sau: I. NHỮNG NỘI DUNG CỐT LÕI CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN Chủ nghĩa Mác - Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của C.Mác, Ph.Ănghen và sự phát triển của V.I.Lênin; là sự kế thừa và phát triển những giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là thế giới quan, phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng Nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác - Lênin bao gồm ba bộ phận cấu thành là: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học.
1. Triết học Mác - Lênin Triết học Mác - Lênin là khoa học khái quát những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; đem lại cho con người thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn, khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học Mác - Lênin với ba nội dung cơ bản là: Chủ nghĩa duy vật biện chứng; phép biện chứng duy vật và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. 1.1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng Với trọng tâm là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, qua đó xác định chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm và vấn đề khả năng nhận thức của con người. Chủ nghĩa duy vật biện chứng xác định vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức và ý thức tác động trở lại vật chất, con người nhận thức
được thế giới và khả năng nhận thức của con người là vô hạn. Chủ nghĩa duy vật biện chứng giúp chúng ta xác định được trong xã hội đâu là vật chất, đâu là đời sống tinh thần, đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần, nên muốn cải tạo xã hội, phát triển đất nước ta đi từ cái gốc của nó tức là đời sống vật chất. Trong giai đoạn hiện nay, kẻ thù của chủ nghĩa Mác thường xuyên tạc là chủ nghĩa Mác chỉ biết đến vật chất, kinh tế mà coi nhẹ vai trò của ý thức, tư tưởng. Thật ra hoàn toàn không phải như vậy, chỉ có chủ nghĩa duy vật tầm thường không biện chứng mới phủ nhận hoặc xem nhẹ vai trò của các yếu tố tinh thần, ý thức mà thôi. Khi khẳng định vai trò của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất. Quan hệ giữa vật chất và ý thức không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ tác động qua lại. Không thấy điều đó sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường và bệnh bảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động. Nói tới vai trò của ý thức là nói tới vai trò của con người, bản thân của ý thức nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Theo Mác thì lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng vật chất, cho nên muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện được các quy luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải có ý chí và có phương pháp để tổ chức hành động. Tư tưởng, ý thức có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định. Thế giới vật chất với những quy luật khách quan của nó- không phụ thuộc vào ý thức của con người, nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Chính vì vậy Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc bệnh chủ quan duy ý chí. 1.2. Phép biện chứng duy vật Phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Với những nội dung cơ bản là: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến; Nguyên lý về sự phát triển; các cặp phạm trù: cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, tất nhiên và ngẫu nhiên, nguyên nhân và kết quả, nội dung và hình thức, khả năng và hiện thực.
để hình thành thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng, mà còn là điều kiện tiên quyết cho mọi hoạt động tự do sáng tạo và phát triển toàn diện con người. Sáu cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật: Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định. Một là, cái riêng, cái chung và cái đơn nhất: Phép duy vật biện chứng cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông quan cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần tuý tồn tại bên ngoài cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung. Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Hai là, nguyên nhân và kết quả: Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Kết quả là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra. Ba là, tất nhiên và ngẫu nhiên: Tất nhiên (tất yếu) là cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế chứ không thể khác được. Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc xuất hiện như thế khác. Bốn là, nội dung và hình thức: Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật. Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó. Năm là, bản chất và hiện tượng: Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng là biểu hiện ra ngoài của bản chất trong những điều kiện xác định. Sáu là, khả năng và hiện thực: Khả năng là cái hiện chưa có, cái còn là tiền đề, là mầm móng khi có điều kiện thích hợp thì nó sẽ xuất hiện trên thực tế. Hiện thực là những gì đã tồn tại trên thực tế. Khả năng và hiện thực là hai mặt thống nhất của mọi quá trình vận động. Các phạm trù trên phản ánh những thuộc tính bản chất nhất, những mối liên hệ chung tất yếu và phổ biến nhất của toàn bộ thế giới từ tự nhiên đến xã hội và tư duy con người. Các phạm trù không phải là cái có sẵn ở bên ngoài hay bên trong ý thức
của con người, mà nó được hình thành trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Mỗi phạm trù là kết quả của quá trình nhận thức trước đó và là mắc xích trung gian của quá trình nhận thức tiếp theo của con người để ngày càng tiến gần đến chân lý. Phạm trù được hình thành bằng phương pháp trừu tượng hóa và khái quát hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của sự vật. Các phạm trù của phép biện chứng duy vật là một hệ thống mở, nó thường xuyên được bổ sung và làm phong phú thêm bằng những tri thức khoa học và những phạm trù mới. Với tư cách là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, các phạm trù luôn vận động và phát triển tương ứng với sự vận động, phát triển của thế giới khách quan. Chỉ có như vậy chúng mới phản ánh đúng đắn thế giới khách quan và trở thành công cụ của nhận thức và thực tiễn. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại (quy luật lượng- chất): Đây là quy luật cơ bản và phổ biến về phương thức chung của quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và trong tư duy của con người. Chất và lượng là hai mặt thống nhất của mọi sự vật và hiện tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và trong cả tư duy. Hai phương diện đó đều tồn tại khách quan, trong đó chất tồn tại thông qua lượng và lượng là biểu hiện của chất ra bên ngoài. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức chỉ có ý nghĩa tương đối: có cái trong mối quan hệ này lại là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại đóng vai trò là lượng. Quy luật này chỉ ra rằng bất kì sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng. Việc nắm vững nội dung quy luật này có vai trò to lớn trong việc xem xét giải quyết những vấn đề do công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta đặt ra. Việc thực hiện thành công quá trình đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ tạo ra bước nhảy về chất ở đó, và tạo điều kiện để thực hiện thành công quá trình đổi mới toàn diện tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm tạo ra bước nhảy về chất của toàn bộ xã hội nói chung. Như bất kì một sự thay đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong quá trình đổi mới hiện nay cũng chỉ có thể là kết quả của quá trình thay đổi về lượng thích hợp. Bất kì một sự nôn nóng, chủ quan, ảo tưởng nào đều có thể dẫn tới sai lầm, tổn thất, cản trở sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn): Quy luật này là “ hạt nhân ” của phép biện chứng. Là quy luật về nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển. Theo quy luật này, nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển chính là mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật. Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập.
xong mà nó là quá trình đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể để nhận thức chân lý khách quan. Lý luận nhận thức biện chứng duy vật tập trung vào những vấn đề quan trọng nhất như: Thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức: Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức. Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức; nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức, khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Con đường biện chứng của nhận thức: Đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn, hay còn gọi là đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính tuy là 2 giai đoạn của quá trình nhận thức, nhưng xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn, đều lấy sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan làm đối tượng, nội dung phản ánh. Giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhận thức cảm tính là tiền đề, điều kiện của nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính không thể thực hiện được nếu thiếu những tri thức và tài liệu cần thiết do nhận thức cảm tính đưa lại. Như vậy, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn là con đường biện chứng của nhận thức chân lý khách quan. Trong đó, thực tiễn vừa là tiền đề xuất phát, vừa là điểm kết thúc của một vòng khâu, một quá trình nhận thức. Nhưng kết thúc vòng khâu này thì lại là điểm bắt đầu của một vòng khâu khác cao hơn. Đó là quá trình liên tục, vô tận của sự nhận thức chân lý khách quan. Nhận thức khoa học và các trình độ nhận thức khoa học; vấn đề chân lý; sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Nghiên cứu quá trình nhận thức của con người qua quan điểm của phép biện chứng duy vật giúp ta có những bước làm cụ thể để cải tạo hiện thực theo hướng tiến bộ, phát triển, các bước đó cụ thể là: Tổ chức hoạt động thực tiễn là khâu quyết định biến lý luận thành hiện thực, việc này yêu cầu phải tập hợp lực lượng thành khối thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động; có tri thức khoa học về đối tượng cải tạo; có kế hoạch thực hiện đồng bộ và chi tiết; phương án điều chỉnh hoạt động; lựa chọn phương tiện và phương pháp tác động thực tiễn; triển khai thực hiện kế hoạch; nắm bắt thông tin, phát hiện và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn nảy sinh trong thực tiễn; đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm, khái quát lý luận đưa ra chương trình hoạt động mới. Như vậy việc tổ chức thực tiễn yêu cầu không chỉ tính đến hiệu quả kinh tế mà còn phải đảm bảo hiệu quả của những mặt khác như: Chính trị, an ninh quốc phòng, luật pháp, bảo vệ môi trường, sức khỏe, đạo đức, văn hóa...
1.3. Chủ nghĩa duy vật lịch sử Với những nội dung cơ bản là: Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất; Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất; Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội và ý thức xã hội; Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội; vai trò của đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội; quan niệm về con người và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất: Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Phương thức sản xuất dùng để chỉ những cách thức mà con người sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội. Là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người; nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất là tổng thể các nhân tố được sử dụng trong quá trình sản xuất tạo thành năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng tự nhiên theo nhu cầu của con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt : Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai yếu tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là “hình thức xã hội” của quá trình đó. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu và phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách quan là lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thái kinh tế- xã hội, còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: Cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị- xã hội tương ứng, được hình thành trên một cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, còn kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh đối với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể
trước đó, học thuyết đó đã chỉ ra rằng, động lực của lịch sử không phải là một thứ tinh thần thần bí nào, mà chính là hoạt động thực tiễn của con người, mà hoạt động đó lại xuất phát từ cái sự thật hiển nhiên là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học,... C.Mác đã làm nổi bật những quan hệ xã hội vật chất, tức là những quan hệ sản xuất, những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định đối với tất cả mọi quan hệ khác, đã cung cấp cho khoa học xã hội một tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan để thấy được các quy luật xã hội. C.Mác viết: “Tô i coi sự phát triển của những hì nh thái kinh tế- xã hội là một quá trì nh lịch sử- tự nhiên”. V.I.Lênin giải thích thêm: “ Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trì nh độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hì nh thái xã hội là một quá trì nh lịch sử- tự nhiên. Và dĩ nhiên là khô ng có một quan điểm như thế thì khô ng thể có một khoa học xã hội được”^2. Sự ra đời của triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại, vấn đề không chỉ nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới: “Các nhà triết học đã ch ỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”^3. Toàn bộ những tư tưởng cơ bản trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế- xã hội đã trở thành cơ sở lý thuyết và phương pháp luận khoa học của sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Việt Nam từ một nền kinh tế nông nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, ta cần phải xây dựng từ đầu lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Để có một hình thái kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa, trong thời kì đổi mới, hội nhập quốc tế, Đảng ta đã đưa ra và thực hiện những quyết sách quan trọng như: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chúng ta có thể khẳng định rằng khi công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với việc ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, khi khoa học công nghệ cùng với giáo dục- đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu, là nền tảng, động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nguồn lực con người là yếu tố quyết định mọi thắng lợi. Tóm lại , Triết học Mác- Lênin với 3 nội dung cốt lõi là chủ nghĩa duy vật biện chứng; phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử là thế giới quan và phương pháp luận được gắn kết và thống nhất hữu cơ với nhau là do triết học (^2) V.I.Lênin toàn tập, tập 1, 1980, Nxb. Macxcova, tr.163. (^3) Các Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.12.
Mác-Lênin hoàn toàn có khả năng nhận thức đúng đắn cả thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Triết học Mác- Lênin đã trang bị thế quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng và phương pháp luận khoa học để Đảng ta xây dựng chủ trương, đường lối, chương trình, kế hoạch hành động và biến chúng thành hiện thực, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Những bài học quý giá của thực tiễn cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua với thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, của 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, những thành tựu của 35 năm đổi mới đất nước vừa qua là những bằng chứng sinh động thể hiện rõ vai trò, sức mạnh của vận dụng sáng tạo Triết học Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam.
2. Kinh tế chính trị Mác-Lênin Kinh tế chính trị Mác-Lênin là khoa học nghiên cứu quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất của cải vật chất của xã hội. Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chỉ rõ bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa; những quy luật kinh tế chủ yếu hình thành, phát triển và đưa chủ nghĩa tư bản tới chỗ diệt vong. Nghiên cứu những quy luật phát triển của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hội không có áp bức, bất công, vì tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Kinh tế chính trị học Mác- Lênin gồm 2 nội dung chủ yếu: (^) (1) Lý luận về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ; (^) (2) Dự báo về một số đặc điểm của nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa. 2.1. Lý luận về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa Nghiên cứu quá trình sản xuất của tư bản, C.Mác đã xây dựng lý luận giá trị lao động thật sự khoa học. Đặc biệt, với phát hiện mới về tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, C.Mác đã luận giải một cách khoa học về nguồn gốc của giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa. C.Mác phân tích nguồn gốc, bản chất của tiền tệ, luận giải quy luật lưu thông tiền tệ, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông. Nghiên cứu về kinh tế hàng hóa, C.Mác chỉ ra bản chất sản xuất tư bản chủ nghĩa là tạo ra giá trị thặng dư. Trên cơ sở xây dựng lý luận hàng hóa sức lao động, C.Mác chỉ ra nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư là do sức lao động của người công nhân làm thuê sáng tạo ra; luận giải khoa học bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Để làm rõ bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác còn phân tích trình độ và quy mô bóc lột của tư bản; chỉ ra các phương pháp làm tăng giá trị thặng dư và quá trình tích lũy tư bản làm cho tư bản không ngừng lớn lên. Cùng với quan niệm duy vật về lịch sử, Ph.Ăngghen coi học thuyết giá trị thặng dư là phát minh vĩ đại thứ hai của C.Mác: “Khô ng phải chỉ có tì m ra quy luật phát triển của lịch sử loài người, Mác cũ ng tì m ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra. Với việc phát hiện ra giá trị thặng dư trong lĩnh vực này thì lập tức một ánh sáng đã hiện ra trong khi tất cả các cô ng trì nh nghiên cứu trước đây của các nhà kinh
nguyên tắc phân phối mới là “làm theo năng lực, hưởng theo nhu c ầ u”. Đó là lúc xã hội có thể sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng dồi dào đến mức không cần dùng phân phối lợi ích vật chất để kích thích lao động. 2.3. V.I.Lênin đã có những cống hiến vô cùng to lớn trong việc bảo vệ và phát triển kinh tế chính trị học mác-xít Trên cơ sở thực tiễn phát triển của chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin đã bổ sung và phát triển về chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội. Đặc biệt, trong lý luận tái sản xuất tư bản xã hội, khi tính tới ảnh hưởng của tiến bộ khoa học- kỹ thuật làm cho cấu tạo hữu cơ của tư bản không ngừng tăng lên trong quá trình tái sản xuất mở rộng, V.I.Lênin đã phát hiện ra quy luật ưu tiên phát triển sản xuất tư liệu sản xuất- quy luật kinh tế quan trọng của nền kinh tế hiện đại. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản phát triển sang giai đoạn mới, V.I.Lênin đã sáng tạo ra lý luận khoa học về chủ nghĩa tư bản độc quyền. V.I.Lênin cho rằng, chủ nghĩa tư bản độc quyền là sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, là nấc thang phát triển cao của chủ nghĩa tư bản và chỉ rõ 5 đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền, đó là: (^) (1)Sự tích tụ sản xuất và các tổ chức độc quyền; (^) (2)Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tư bản tài chính; (^) (3)Xuất khẩu tư bản; (^) (4)Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các liên minh tư bản độc quyền; (^) (5)Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc. Những đặc điểm này vạch rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn mới. Đồng thời, V.I.Lênin chỉ ra bản chất, nguyên nhân hình thành và hình thức biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, cùng với xu hướng vận động của nó. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, là sự kết hợp hay dung hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một cơ chế thống nhất, trong đó nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và can thiệp vào quá trình kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản. Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự tham gia của nhà nước tư sản vào quá trình kinh tế. Hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản là tổng thể những thể chế và thiết chế kinh tế của nhà nước tư sản. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội theo hướng có lợi cho tư sản độc quyền. Các công cụ chủ yếu nhà nước tư sản dùng để điều tiết nền kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế là: ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước... Những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền và độc quyền nhà nước: Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính
trên phạm vi toàn thế giới. Chủ thể phân chia thị trường thế giới không chỉ có các tổ chức độc quyền quốc gia mà bên cạnh đó còn có các nhà nước tư sản phát triển và đang phát triển. Kết quả của việc phân chia kinh tế thế giới hình thành các liên minh và các khối liên kết khu vực. Học thuyết đã chỉ ra sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền và độc quyền nhà nước; vai trò và giới hạn lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Từ sự phân tích những đặc trưng kinh tế chính trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, V.I.Lênin đã rút ra những kết luận về vị trí lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn phát triển mới của nó: giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Đó là giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa tư bản, đêm trước cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là, chủ nghĩa đế quốc nhất định sẽ bị thay thế bởi chủ nghĩa xã hội, nhưng quá trình thay thế đó là một quá trình đấu tranh quyết liệt, quanh co khúc khuỷu, có cao trào và có thoái trào chứ không phải là một quá trình trơn tru, thẳng tắp. Tóm lại , Kinh tế chính trị Mác- Lênin là khoa học rất quan trọng trong đời sống xã hội, ngoài việc chỉ ra bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, nó giúp chúng ta thấy được bản chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế, nắm được các quy luật kinh tế chi phối sự vận động và phát triển kinh tế; phát triển lý luận kinh tế và vận dụng lý luận đó vào thực tế, hành động theo quy luật, tránh bệnh chủ quan, giáo điều, duy ý chí. Kinh tế chính trị cung cấp các luận cứ khoa học làm cơ sở cho sự hình thành đường lối, chiến lược phát triển kinh tế xã hội và các chính sách, biện pháp kinh tế cụ thể phù hợp với các yêu cầu của các quy luật khách quan và điều kiện cụ thể của đất nước ở từng thời kì nhất định. Là công cụ cần thiết không chỉ cho các nhà quản lý vĩ mô mà còn rất cần cho quản lý sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp của mọi tầng lớp dân cư, ở tất cả các thành phần kinh tế. Kinh tế chính trị là phương tiện giúp ta hiểu rõ tính đúng đắn, khoa học, sáng tạo về chủ trương, đường lối, chính sách kinh tế cụ thể của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kì phát triển đất nước.
3. Chủ nghĩa xã hội khoa học Nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học là nghiên cứu: Sứ mệnh lịch sử của giai nhân cấp công nhân và cách mạng xã hội chủ nghĩa; Những vấn đề chính trị- xã hội có tính quy luật trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa; Chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng. 3 .1. Học thuyết về chủ nghĩa xã hội Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội là một xã hội có cơ sở vật chất- kỹ thuật là nền đại công nghiệp; xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; tạo ra được cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới; thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, coi đó là nguyên tắc căn bản nhất; nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, có tính dân tộc
Muốn thực hiện được vai trò và sứ mệnh của mình, giai cấp vô sản phải liên minh với giai cấp nông dân, phải thành lập ra đảng của mình, độc lập với tất cả các đảng khác, đủ sức lãnh đạo cuộc đấu tranh vĩ đại của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Đảng đó phải là đội tiên phong của giai cấp tiên phong, tiên phong cả về nhận thức- tư tưởng- lý luận- chính trị và cả trong hành động- trong hoạt động thực tiễn. Đảng đó phải tổ chức và hoạt dộng theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên kiểm điểm, tự phê bình và quan hệ mật thiết với quần chúng... Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đem lại lời giải thích khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân, trở thành tư tưởng cốt lõi lý luận chính trị, tạo chuyển biến nhảy vọt của tư tưởng xã hội chủ nghĩa, từ không tưởng trở thành khoa học của chủ nghĩa Mác. V.I. Lênin đánh giá: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”^6. 3.3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay Hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất, kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp. Để xứng đáng với vai trò là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng tới kinh tế tri thức, hội nhập và gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, cần phải “Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình đ ộ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lầ n thứ tư” 7 . Hiện nay, nội dung kinh tế hàng đầu của sự nghiệp đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, được Đại hội XIII xác định là: “Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trư ởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”^8. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng và phát triển giai cấp công nhân là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của mỗi người công nhân. Chủ nghĩa Mác- Lênin là một hệ thống lý luận khoa học- biện chứng, hiện đại về những quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Giá trị của chủ nghĩa Mác- Lênin ở tính chuẩn xác, toàn diện, hệ thống và biện chứng. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã tổng kết, đúc rút từ sự phân tích toàn bộ lịch sử nhân loại và thực tiễn xã (^6) V.I.Lênin toàn tập, tập 23, 1980, Nxb. Macxcova, tr.1. (^7) Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG Sự thật, 2021, tập 1, tr. (^8) Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG Sự thật, 2021, tập 1, tr.
hội, kế thừa một cách có hệ thống, chọn lọc những giá trị tư tưởng và thành tựu khoa học, các ông đã chỉ ra quy luật vận động của lịch sử nhân loại và con đường tất yếu đi tới chủ nghĩa cộng sản- một hình thái kinh tế- xã hội phát triển cao hơn, triệt để hơn các hình thái kinh tế- xã hội trước đó. Chủ nghĩa Mác- Lênin là ngọn đuốc soi đường cho phong trào cộng sản và công nhân trên thế giới. Hệ tư tưởng khoa học và cách mạng này sẽ còn tiếp tục được vận dụng, phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển đất nước. Việc bổ sung, phát triển, hoàn thiện thêm là điều tất yếu, những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin trong điều kiện ngày nay vẫn đúng, vẫn đang có sức hấp dẫn, chinh phục nhiều người trên thế giới bởi tính cách mạng, khoa học và tính triệt để của nó. II. NHỮNG NỘI DUNG CỐT LÕI CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Cần tập trung nghiên cứu, quán triệt nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh trong các nhóm vấn đề: (^) (1) Về con đường của cách mạng Việt Nam; (^) (2) Về xây dựng chủ nghĩa xã h ội ở Việt Nam; (^) (3) Về nhân dân, đại đoàn kết dân tộc; (^) (4) Về xây dựng văn hóa và con người Việt Nam; (^) (5) Về phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; (^) (6) Về xây dựng Đảng; (^) (7) Về đạo đức.
1. Về con đường của cách mạng Việt Nam Bằng hoạt động thực tiễn và tư duy lý luận, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyết tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” và “không có gì quý hơn đ ộc lập, tự do”. Người khẳng định vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ chặt chẽ lẫn nhau. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết. Độc lập dân tộc mà chưa giành được thì vấn đề giai cấp cũng không giải quyết được. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc là sức mạnh của toàn dân tộc. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng bị áp bức, trong đó vai trò động lực cách mạng là của công nhân và nông dân, lực lượng nòng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phản ánh tính triệt để cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con người ở mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng. Độc lập dân tộc là mục tiêu
gì quý bằng dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của dân”^9. Người khẳng định, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào cũng không địch nổi. Người từng nói với cán bộ: “Nếu lãnh đ ạo khéo thì việc gì khó khăn m ấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm đư ợc”^10. Là công bộc, là đầy tớ của dân, thì Đảng, Chính phủ và mỗi cán bộ phải chăm lo cho đời sống của nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Về đại đoàn kết dân tộc, theo Hồ Chí Minh đoàn kết là làm ra sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi, là then chốt của thành công. Người đã nhiều lần nói: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn k ết lâu dài... Ai có tài, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn k ết với họ”. Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải kế thừa truyền thống yêu nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc. Để thực hành đoàn kết rộng rãi cần có niềm tin vào nhân dân, với đại đa số là công nhân, nông dân. Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người, trân trọng phần “thiện” dù nhỏ nhất ở mỗi con người để lôi kéo, tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ. Hồ Chí Minh đúc kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đ ại thành công. Đại đoàn kết dân tộc là bài học xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết để xây dựng thành công một nước Việt Nam độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đại đoàn kết đòi hỏi phải: Xây dựng một Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, một Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, một hệ thống chính trị có hiệu lực, hiệu quả; tập hợp rộng rãi nhất mọi nguồn lực để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; chủ động xác định rõ các bước hội nhập quốc tế. Thực hiện đại đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại sẽ tạo nên sức mạnh vô địch cho cách mạng Việt Nam.
4. Về xây dựng văn hóa và con người Việt Nam Về văn hóa, theo Hồ Chí Minh, văn hóa theo nghĩa rộng là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra với phương thức sử dụng chúng nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời đó cũng là mục đích sống của loài người. Theo nghĩa hẹp, văn hóa là kiến trúc thượng tầng; là trình độ học vấn của con người. Theo Hồ Chí Minh, nền văn hóa dân tộc phải xây dựng trên các nội dung sau: (1) Xây dựng tâm lý: tinh thầ^ n độc^ lập, tự^ cường;^ (2) Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, (^9) Hồ Chí Minh toàn tập, t10, tr. (^10) Hồ Chí Minh toàn tập, t12, tr.
làm lợi cho quầ n chúng; (^) (3) Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội; (^) (4) Xây dựng chính trị: dân quyền; (^) (5) Xây dựng kinh tế. Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp nhất của văn hóa Việt Nam trong thời đại mới. Tư tưởng văn hóa của Người đã được thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa của nước ta cũng như của thế giới qua gần một thế kỷ kiểm nghiệm, xác nhận là những tư tưởng mang tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo, tính thực tiễn sâu sắc, tiêu biểu cho cả nền văn hóa tương lai. Về con người, Hồ Chí Minh khẳng định, con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp cách mạng. Theo Người, “vô lu ận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gầ n đến xa, đều thế cả”^11. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa gồm hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là , kế thừa những giá trị truyền thống, tốt đẹp của con người truyền thống Việt Nam. Hai là , hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên...); có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng. Chiến lược trồng người là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Để thực hiện chiến lược trồng người có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện cả đức, trí, thể, mỹ; phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu.
5. Về phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân Về phát huy dân chủ, theo Hồ Chí Minh, dân chủ có nghĩa dân là chủ. Người nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nhà nước do nhân dân làm chủ”, “chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên “dân là chủ”, mọi quyền hành đều ở nơi dân, nhân dân thật sự là ông chủ tối cao của chế độ mới. Trong quan hệ giữa dân và Đảng, Hồ Chí Minh quan niệm, dân là chủ thì Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên là đầy tớ và làm đầy tớ cho dân. Hồ Chí Minh coi dân chủ thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Dân chủ không dừng lại với tư cách như là một thiết chế xã hội của một quốc gia, mà còn có ý nghĩa biểu thị mối quan hệ quốc tế, hòa bình giữa các dân tộc. Đó là dân chủ, bình đẳng trong mọi tổ chức quốc tế, là nguyên tắc ứng xử trong các quan hệ quốc tế. Về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, theo Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân là tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về (^11) Hồ Chí Minh toàn tập, t5, tr.