









Study with the several resources on Docsity
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Prepare for your exams
Study with the several resources on Docsity
Earn points to download
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Community
Ask the community for help and clear up your study doubts
Discover the best universities in your country according to Docsity users
Free resources
Download our free guides on studying techniques, anxiety management strategies, and thesis advice from Docsity tutors
YEAR 1, FROM THE COURSE 'History of world civilization' OF MR Phạm Văn Cả in my university.
Typology: Exams
1 / 15
This page cannot be seen from the preview
Don't miss anything!
1.1VM:Văn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất và tinh thần của văn hoá. Trái với văn minh là dã man. Vì vậy, văn minh đánh giá trình độ phát triển của con người trong thời điểm or thời kì ls. Nền văn minh được hình thành và chết đi theo thời gian -Khởi nguồn của văn minh là nông nghiệp và nhà nước. Ví dụ: văn minh Phương Đông, văn minh Hy Lạp... -Đặc trưng của văn minh: là lát cắt đồng đại chỉ xuất hiện ở 1 gđ trong ls, có giá trị siêu dân tộc, mang tinhs quốc tế 1.2NỀN VĂN MINH: Nền văn minh là một tập hợp toàn diện và hệ thống hóa của những giá trị văn minh mà con người tạo ra trong suốt một giai đoạn lịch sử hoặc thời kỳ cụ thể, phản ánh trình độ phát triển về cả vật chất và tinh thần của xã hội _Nền văn minh thực hiện 3 chức năng:
- Làn sóng thứ nhất – Văn minh nông nghiệp (Agricultural Civilization): Thời kỳ: Khoảng 10.000 năm TCN đến thế kỷ 18. Đặc điểm:
+Bắt đầu với cuộc cách mạng nông nghiệp khi con người chuyển từ săn bắn hái lượm sang trồng trọt và chăn nuôi. +Xã hội dựa vào sản xuất nông nghiệp, tạo ra nền tảng cho việc định cư, hình thành làng mạc, thành phố, và các nền văn minh cổ đại như Lưỡng Hà, Ai Cập, và Trung Hoa.
Phân tích sự phát triển độc lập của từng khu vực: Nghiên cứu sự phát triển riêng biệt của các nền văn minh trong từng khu vực, làm rõ các đặc điểm chính trị, xã hội, tôn giáo và văn hóa. Nghiên cứu các yếu tố chính trị và xã hội: Phân tích cấu trúc chính trị và xã hội đặc thù của mỗi khu vực, ví dụ hệ thống dân chủ ở phương Tây và các triều đại phong kiến ở phương Đông. Tôn giáo và triết học: Nghiên cứu ảnh hưởng của các tôn giáo và triết lý, như Kitô giáo ở phương Tây và Phật giáo, Nho giáo ở phương Đông, đến tổ chức xã hội và tư tưởng. Khoa học, nghệ thuật và công nghệ: Phân tích những thành tựu khoa học, nghệ thuật và công nghệ đặc trưng của mỗi khu vực, ví dụ khoa học tự nhiên ở phương Tây và nghệ thuật truyền thống ở phương Đông. Sự giao thoa và ảnh hưởng qua lại: Nghiên cứu sự giao lưu giữa các khu vực thông qua thương mại, chiến tranh và di cư, từ đó làm nổi bật sự ảnh hưởng qua lại giữa các nền văn minh.
3.2 Thành tựu chính 3.2.1Toán học : Toán học Ai Cập ra đời từ rất sớm, bắt nguồn từ yêu cầu phải đo đạc lại ruộng đất bị nước sông Nin làm ngập và cần phải tinhs toán vật liệu trong các công trình xây dựng của người Ai Cập, phát triển khá mạnh mẽ trong ba lĩnh vực số học, đại số và hình học. Vì vậy nhu cầu thực tiễn, nhu cầu của sản xuất nông nghiệp là những nguyên nhân thúc đẩy toán học ra đời. Thiên niên kỷ III trước Công nguyên xuất hiện từng bước quan niệm trừu tượng về các con số. Thiên niên kỷ II trước Công nguyên: phát triển thành công hệ đếm, nhưng vẫn chưa sáng tạo ra số 0, nên cách viết chữ số của họ tương đối phức tạp:
Các phép tính cơ bản: Dùng Hệ số thập phân: cơ số 10, chưa có số 0, biết làm các phép cộng và trừ, còn nhân và chia thì thực hiện bằng cách cộng và trừ liên tiếp. Đại số : giải phương trình bậc nhất, tìm ra cấp số cộng và cấp số nhân Hình học : Tính diện tích hình vuông, chữ nhật, hình thang, tam giác, tứ giác, diện tích hình cầu,... Tính được số π = 3,16 và bước đầu biết đến tính chất đồng dạng Biết tính thể tích của hình lăng trụ, lập phương… Số học : Thành tựu đầu tiên là phép đếm theo cơ số 10, các chữ số cũng được dùng chữ tượng hình để biểu thị và chưa tìm ra con số 0. Biết tính cộng trừ, nhưng phép nhân và chia được hiểu là công trừ liên tiếp Biết căn cứ khả năng nhân đôi của một số. Căn cứ khả năng lấy 2/3 của một số. 3.2.2Thiên văn học : -Cơ sở ra đời: Để nắm vững được thời tiết và khai thác nguồn thuỷ lợi của sông Nile phục vụ cho canh tác nông nghiệp, ở Ai Cập đã sớm ra đời Thiên văn học và lịch pháp. Với những dụng cụ hết sức thô sơ như sợi dây dọi, mảnh ván có khe hở, ngồi trên nóc các đền miếu để quan sát bầu trời cả ngày lẫn đêm, theo dõi sự lên xuống của mực nước sông Nile.
2.1 Cơ sở hình thành Nền kinh tế phát triển cao, đời sống vật chất của giai cấp thống trị Hy Lạp được nâng cao, do đó thúc đẩy nhu cầu nâng cao không chỉ đối với đời sống vật chất mà còn cả về đời sống tinh thần. Tư duy khoa học của người Hy Lạp cổ đại đã vươn tới trình độ khái quát hóa cao, hình thành những tiền đề, định lý, nguyên lý có giá trị. Đây là nơi sản sinh ra những nhà khoa học khổng lồ, kiến thức uyên bác và để lại nhiều thành tựu lớn lao trong kho tàng khoa học của nhân loại, đặc biệt là các lĩnh vực như toán học, vật lý, thiên văn,.... 2.2 Các thành tựu chính 2.2.1 Thiên văn và địa lý Thales: Được ghi nhận là “Nhà toán học đầu tiên, nhà thiên văn học đầu tiên”. Ông du lịch nhiều nơi và tiếp thu các thành tựu của Babilon và Ai Cập. Ông đã học tập và kế thừa những thành tựu thiên văn học của Lưỡng Hà. Là người phát minh ra được cách tính toán và dự báo chính xác về hiện tượng Nhật thực và Nguyệt thực ngày ở Mile 28/5/585. Nhưng ông sai lầm khi cho rằng trái đất nổi trên nước, vòm trời có hình bán cầu úp trên mặt đất. Pitago : Nhà toán học, lý học, triết học, thiên văn học nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại, quê ở đảo Xamốt (thuộc biển Egiê). Ông cho rằng mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều có quy luật của nó. Về thiên văn học, ông có tiến bộ hơn Talét, ông nhận thức được quả đất hình cầu và chuyển động theo quỹ đạo nhất định. Là người đầu tiên dùng danh từ Cosmos để chỉ vũ trụ. Aristarchus : Người đầu tiên nêu ra thuyết hệ thống mặt trời, ông tính toán khá chính xác thể tích, khối lượng của mặt trời, quả đất, mặt trăng và khoảng cách của các thiên thể ấy. Ông khẳng định “Không phải mặt trời xoay quanh Trái đất mà chính Trái đất xoay quanh Mặt trời và mỗi ngày tự quay quanh nó một vòng”. Ératosthène : Ông là người đầu tiên tính được độ nghiêng của trục quay Trái đất là 23’27. Ông cũng là người đầu tiên tính toán khá chính xác chu vi của Trái đất bằng cách đo độ dài của đường xích đạo là 39 700 km, gần bằng con số ngày nay tính được. Hecataus : Sống cùng thời với Thales, là người đầu tiên vẽ được bản đồ thế giới, đây là bản đồ địa lý sớm nhất trong lịch sử địa lý học phương Tây. Clauda Ptolémée : Là nhà thiên văn học , toán học, địa lý học, ông soạn sách Địa lý học (Géographie) gồm 8 chương, trong đó ông vẽ bản đồ thế giới. 2.2.2Toán học Thales: Là người đầu tiên phát biểu định lý tỷ lệ thức (định lý Thales), dựa vào công thức này ông đã tính được chiều cao của Kim tự tháp bằng cách đo bóng của nó. Ông chứng minh được 2 góc đáy của tam giác cân bằng nhau, xác định tam giác bởi 1 cạnh và 2 góc kề bù hoặc tính khoảng cách của 1 vật mà không đến gần
được, mọi đường kính thì chia đôi một đường tròn, góc nội tiếp trong nửa hình tròn là một góc vuông. Pithagore : Đem lại nhiều biến đổi cho nền toán học thế giới. Ông cùng các học trò của mình đã tổng kết những tri thức về số học, thiết lập nhiều công thức, định lý và chứng minh chúng bằng suy luận logic chứ không phải bằng trực giác. Một số đóng góp của ông: Chứng minh quan hệ giữa 3 cạnh của tam giác vuông. “Tổng hai cạnh góc vuông bằng bình phương của cạnh huyền trong một tam giác vuông”. Chứng minh: tổng các góc trong một tam giác bằng 180 độ.. Ông có đóng góp về bảng tính nhân, thập phân và các công thức nổi tiếng về tam giác vuôg Euclide : Được xem là một trong những người sáng lập trường toán học thuộc "Đại học" Alecxandri. Ông cũng đã để lại cho hậu thế những công trình nghiên cứu bất hủ. Với tác phẩm ni tiếng nhất là bộ Cơ bản gồm 13 cuốn được giữ lại đến ngày nay.
Bối cảnh ra đời của đạo Phật Xã hội : Vào khoảng giữa thiên niên kỷ I Trước công nguyên, Ấn Độ xưa đã hình thành hàng loạt tiểu quốc. Các vương quốc hai bên bờ sông Hằng (miền Bắc Ấn Độ có khoảng 23 tiểu quốc). Các vương quốc có điều kiện tự nhiên khác nhau , kinh tế, xã hội, chính trị phát triển không đều nhau. Do vậy, các vương quốc luôn mâu thuẫn, cạnh tranh và thôn tính nhau làm tình hình chính trị bất ổn, tâm lý dân chúng bất an. Đến thế kỷ V Trước công nguyên chỉ còn 4 quốc gia: Kashi, Koshala, Magadha, Virigis. Mâu thuẫn đẳng cấp tăng lữ, quý tộc và sự phân hoá giai cấp mạnh mẽ, trở thành nỗi bức xúc lớn trong xã hội bấy giờ. Tăng lữ (Brahman) thao túng toàn bộ đời sống chính trị, tinh thần, vơ vét tài sản, bắt dân chúng nộp thuế cao và nghĩa vụ khác. Quý tộc (Ksatria) bảo vệ và trực tiếp cai trị đất nước, là người giữ vai trò quyết định trong chiến tranh nhưng địa vị lãnh đạo lại không rõ ràng do ở dưới đẳng cấp tăng lữ. Dân thường (Vaisya) có cuộc sống không ổn định do chiến tranh, mất mùa nhưng thuế không giảm và những áp lực của tôn giáo đè nặng. Nô lệ (Soudra) là kẻ thấp hèn, có một số dân thường bị phá sản trở thành nô lệ, một số phải đi ăn xin. Họ chịu cuộc sống cực khổ dẫn đến tâm lí chán nản, tuyệt vọng. Kinh tế : Công cụ bằng kim loại đã làm thay đổi bản chất của sản xuất. Nhiều ngành kinh tế đã ra đời và ngày càng mở rộng, làm xuất hiện tầng lớp mới, trong đó có thương nhân. Thương nhân là tầng lớp có tiềm lực về kinh tế, nên muốn thay đổi địa vị trong hệ thống đẳng cấp. Tầng lớp này lúc đầu không được xếp vào đẳng cấp nào và cuối cùng bị đẩy xuống đẳng cấp nô lệ, đẳng cấp thấp hèn nhất. Tôn giáo : Cuộc sống khổ cực càng làm cho nhân dân lao động thêm căm ghét những kẻ bóc lột mình, oán ghét chế độ đẳng cấp, không còn tin vào các vị thần Bàlamôn. Những nghi lễ phức tạp, những nghĩa vụ phiền toái, giáo lí ngày càng khó hiểu làm cho người dân ngày càng xa rời tôn giáo này. Trong bối cảnh đó vào thế kỷ VI Trước công nguyên ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều trường phái tôn giáo, triết học mới chủ trương xa lánh thực tại, khổ hạnh, ép xác, tiêu cực, tự kỉ nhưng có 1 điểm chung là trực tiếp và gián tiếp chống lại đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp. Phật giáo cũng là một trong những trào lưu đó và được xem là một phản đề của đạo Bàlamôn. Tiền đề tư tưởng - chính trị : Đạo Bà La Môn đã xác lập được vai trò vững chắc ở Ấn Độ, chi phối đời sống tư tưởng chính trị của các đẳng cấp khác trong xã hội Ấn Độ. Người sáng lập : Do thái tử Xitđacta Gôtama, hiệu Thích Ca Mâu Ni khởi xướng. Quá trình truyền bá và phát triển : Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ khoảng giữa thiên niên kỷ I Trước công nguyên, vào thời điểm rất hưng thịnh của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp. Với giáo lý đề cao lòng từ bi của con người với đồng loại, chống lại chế độ đẳng cấp, với tinh thần bác ái, đạo Phật nhanh chóng chinh phục được đông đảo các tầng lớp nhân dân Ấn Độ từ vua chúa đến nhân dân lao động nên sau khi ra đời đạo Phật nhanh chóng được truyền bá ở miến Bắc Ấn Độ. Từ thế kỷ V trước công nguyên đến thế kỷ V sau công nguyên là quá trình truyền bá và phát triển đạo Phật, từ khi Đức Phật viên tịch cho đến khi đạo Phật không còn phổ biến ở Ấn Độ. Quá trình đó trải qua 4 hội nghị kết tập : Hội nghị kết tập lần 1 Ngay sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, để tránh sự sai biệt, bảo tồn các giáo pháp và luật lệ cho được toàn vẹn. Được tổ chức tại Vương xá thuộc Magada vào thế kỷ V Trước công nguyên. Có 500 đại biểu tham dự, kéo dài trong 7 tháng. Kết thúc hội nghị hình thành bộ Kinh tạng và Luật tạng. Nội dung thống nhất được 2 phần: Pháp: gồm những lời thuyết giáo của Phật được nhớ lại theo ký ức của các đệ tử lúc bấy giờ.
Luật: là quy chế của hội Phật giáo do Đại hội thảo ra. Hội nghị kết hợp tập lần 2 Sau 100 năm có nhiều người muốn thay đổi một số điều chi tiết trong giới luật. Diễn ra vào khoảng thế kỷ IV Trước công nguyên với 700 tăng ni tham dự, diễn ra trong 8 tháng. Trong Đại hội này, một số tỳ kheo khác lại chủ trương canh tân, đưa ra 10 điều luật mới sửa lại luật, họ bị Đại hội trục xuất nên đã thành lập một phái riêng gọi là Đại chúng bộ, là mầm móng của phái Đại thừa sau này. Hội nghị kết tập lần 3 Diễn ra vào khoảng thế kỉ III Trước công nguyên với 1000 tăng ni tham dự trong 9 tháng. Hội nghị thảo luận và hình thành phần Luận tạng. Với sự giúp đỡ của vua Asoka, nhiệm vụ chính là chấn chỉnh lại tổ chức và giáo lý của giáo hội, đồng thời đặt ra kinh kệ và các nghi thức. Asoka cho xây dựng nhiều chùa tháp, thành lập nhiều tăng đoàn, khuyến khích việc truyền bá đạo Phật đến nhiều vùng đất trên báo đảo Ấn Độ và một số quốc gia khác (Sri Lanka, Mianma,...) Đây là thời kỳ cực thịnh của Phật Giáo, đã thống nhất được Tam Tạng Kinh. Tuy nhiên sau khi vương quốc Magada tan rã, đạo Phật cũng suy yếu dần. Hội nghị kết tập lần 4 Diễn ra vào thế kỷ I SCN với sự giúp đỡ của vua Kanisca với 500 tăng ni tham dự ở Casmia. Thông qua giáo lý của Phật giáo cải cách và phái Phật giáo này được gọi là phái Đại thừa để phân biệt với phái Phật giáo cũ (gọi là phái Tiểu Thừa). Phái Tiểu thừa nghĩa là “cỗ xe nhỏ” hoặc “con đường cứu vớt hẹp”, cho rằng những người xuất gia đi tu mới được cứu vớt. Quan niệm Niết bàn là cảnh giới yên tĩnh, gắn với giác ngộ sáng suốt, không còn phiền não khổ đau, không còn nhân quả luân hồi, cũng tức là hư vô. Phật Thích Ca là người đầu tiên đạt đến cảnh giới Niết bàn lúc 35 tuổi. Phái Đại Thừa nghĩa là “cỗ xe lớn” hoặc “con đường cứu vớt rộng”, cho rằng không chỉ những tu hành mà cả những người quy y cũng được cứu vớt. Quan niệm Niết bàn như thiên đường, tức là vương quốc của các vị Phật, cũng tức là nơi Cực lạc. Đề cao vai trò của tầng lớp tăng ni, coi họ là trung gian giữa tín đồ và Bồ tát. Điểm giống nhau giữa Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa là cùng mục đích tôn chỉ. Điểm khác nhau giữa Phật giáo Đại thừa và tiểu thừa: Tiểu thừa trung thành với quan điểm ban đầu của đạo Phật, chủ trương tu luyện và giải thoát theo từng quy mô nhỏ mang tính cá nhân tự giác. Đại thừa mở rộng giáo lý Phật giáo trong nhiều bộ kinh khác nhau, chủ trương giải phóng đông đảo cho nhiều người. Phát triển toàn bộ kinh thánh đồ sộ, tôn vinh Phật Thích Ca thành giáo chủ Phật giáo. Nguyên nhân Phật giáo được chấp nhận ở Ấn Độ: Giai cấp cầm quyền cho rằng Phật giáo không làm tổn hại đến lợi ích của họ, đồng thời cũng không hài lòng với địa vị ưu đãi của những người theo đạo Bàlamôn nên họ ủng hộ đạo Phật. Học thuyết Phật giáo có nhiều điểm phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nên được quần chúng hoan nghênh. Nguyên nhân suy yếu Đạo Phật ở Ấn Độ: Sau những thế kỉ rất thịnh đạt trong khoảng 1000 năm, từ triều đại GUPTA (TK 5 sau TC) đạo Phật có biểu hiện suy thoái, đó là không thống nhất về học thuyết và tổ chức. Chỉ phát triển trong thành phố, những nơi hẻo lánh theo Phật giáo không nhiều. Trong khi đó Hindu đã có từ rất lâu, bám rễ chặt cả ở nông thôn, còn Phật giáo đã yếu ở thành phố là suy yếu hẳn. Trong 3 thế kỷ,Vaisya cảm thấy không có lợi gì, không phải là chỗ dựa, thay đổi xã hội. Đạo Bàlamôn - Hindu bớt khắt khe, nới lỏng đồng thời kế thừa một số ưu điểm của Phật giáo nên dần thu hút dân chúng. Đạo Phật được một số vua cho là quốc giáo nhưng mang tính chất áp đặt nên khi nhà vua chết, đạo Phật cũng dần mất vị trí. Giáo lý ngày càng trở nên uyên thâm, khó hiểu và xa lạ đối với quần chúng, nên khi đã suy yếu thì không còn cơ hội quay trở lại đời sống tinh thần. Nội dung tư tưởng của Phật Giáo Nội dung 1: Chỉ ra con đường ở giữa 2 cực đoạn ( đam mê và khổ hạnh) là con đường trung đạo. Con đường làm cho thân trí sáng suốt, giác ngộ, buông bỏ được dục vọng đạt cảnh giới Niết Bàn.
công bằng, lòng nhân đức đó đã được đông đảo người dân hưởng ứng. Ngày nay Phật giáo giữ vai trò quan trọng trong việc giữ gìn hòa bình, giữ gìn nếp sống tốt đẹp, nhân ái, thương yêu của nhân loại, tổng số tín đồ Phật Giáo trên thế giới ước tính 487.540.000 người chiếm 7,1% dân số thế giới. Tại Việt Nam ước tính có hơn 14 triệu tín đồ Phật Giáo chiếm 16,4 % dân số…. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN, TRUYỀN BÁ THIÊN CHÚA GIÁO Ở LA MÃ CỔ ĐẠI Bối cảnh ra đời Cơ sở kinh tế - xã hội : - Rôma đánh chiếm và biến vùng Palestine thành một bộ phận lãnh thổ của đế quốc La Mã.
-Thượng đế tạo ra vũ trụ và hư không, trước khi thượng đế tạo ra vũ trụ thì chưa có gì cả. Về sau khi thượng đế tạo ra Vũ trụ, Trái đất, Sinh vật. Tín điều về đấng cứu thế -Jésus Christ sinh ở Betlléem, làng Nazarech thuộc Trung cận Đông, mẹ là Eva Maria và Cha là Giuse (Joseph) vốn là một người thợ mộc. Tín điều về loài người và tội tổ tông Những quy tắc đạo đức