Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

Kinh tế phát triển 2022, Study Guides, Projects, Research of Economics

Tham khảo kinh tế phát triển fullbright

Typology: Study Guides, Projects, Research

2021/2022

Uploaded on 05/26/2024

Conmeodangiu11
Conmeodangiu11 🇻🇳

1 / 39

Toggle sidebar

This page cannot be seen from the preview

Don't miss anything!

bg1
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Chính sách phát triển
Bài đọc
Kinh tế học của sự phát triển – 6th ed.
Ch. 4: Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế
Dwight H. Perkins et al. 1 Biên dch: Kim Chi
Hiệu đính: Trang Ngân
Chương 4
C
CÁ
ÁC
C
L
LÝ
Ý
T
TH
HU
UY
Y
T
T
T
TĂ
ĂN
NG
G
T
TR
RƯ
Ư
N
NG
G
K
KI
IN
NH
H
T
T
Trong phn m đầu bài ging Marshall đại hc Cambridge năm 1985, nhà kinh tế học đot gii
Nobel Robert Lucas tp trung vào một vấn đề gây nhiều tranh cãi: s khác biệt to lớn v thu
nhập giữa các nước giàu các nước nghèo trên thế giới. Ông nói trong ngc nhiên: “Sự khác
biệt giữa các nước về mức thu nhập trên đầu người thật quá ln đến mc không th tin được.”
Sau khi t s tăng trưởng phi thường và chuyn đổi Đông Á từ năm 1960 giúp rút ngn
khong cách thu nhập với một s nước, ông nói:
Tôi không hiu làm thế nào người ta th nhìn vào những con số như thếy mà không
cho đó những trin vng hoàn toàn thể xảy ra Liu mt biện pháp o đó
chính phủ Ấn Độ th thực hiện để giúp nn kinh tế Ấn Độ tăng trưởng như Indonesia
hay Ai Cp? Nếu thế, biện pháp đó chính xác ra là gì? Nếu không thì “bn chất” của Ấn
Độ là gì mà làm cho đất nước ra như thế? Những hệ qu v phúc lợi con người liên quan
đến những câu hỏi như thế này đang làm chúng ta băn khoăn: Mt khi ta bt đầu suy nghĩ
v những điu đó thì thật khó mà còn có th nghĩ đến bt k điu gì khác na.1
Câu hỏi của Lucas góp phần dy lên cuc tranh lun và các nghiên cứu về quá trình tăng trưởng
kinh tế. Ta đã bắt đầu tìm hiểu những vấn đề này trong chương trước thông qua mt vài quá trình
cơ bn và xu hướng đặc trưng cho tăng trưởng kinh tế tại các nước thu nhập thấp. Ta đã nhn
mnh rằng tăng trưởng phụ thuc vào hai quá trình: s tích luỹ tài sản (như vốn, lao động, và đất
đai) và đầu tư những tài sản này mt cách năng suất n. Tiết kiệm và đầu là trng tâm,
nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mi đẩy mạnh tăng trưởng. Phương pháp của chúng ta chủ yếu là
thc nghim, vì ta xem xét các số liệu về tăng trưởng và mt s phát hin then cht trong nghiên
cứu về các yếu tố xác định tăng trưởng giữa các nước. Chúng ta đã thy rng chính sách chính
phủ, thể chế, s n định chính tr kinh tế, đặc điểm địa lý, ngun tài nguyên thiên nhiên, và
trình độ y tếgiáo dục, tất cả đều đóng vai trò nht định ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Ta
đã nhn mnh rằng tăng trưởng không phải là phát triển, nhưng tăng trưởng trung tâm của quá
trình phát triển.
Chương này triển khai những ý tưởng trên đây mt cách chính thc hơn thông qua việc gii thiu
lý thuyết bn các nh quan trọng nhất v tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng đến tư duy
phát triển ngày nay. Các hình này mang li cho ta một khuôn khổ nht quán để tìm hiu v
quá trình tăng trưởng, bổ sung cho phương pháp thực nghim ta đã sử dụng trong chương
trước. đây, ta xác định mối quan hệ toán hc c th gia lượng vn và lao động, năng suất của
vn và lao động, và tổng sản lượng. Điều quan trọng là các mô hình này cũng tìm hiu quá trình
tăng thêm sự tích luỹ vốn lao động, cùng với s gia tăng năng suất của chúng; điều này m
thay đổi mô hình t ch xác định mc sản lượng trở thành xác định tỉ lệ thay đổi sản lượng, mà
l dĩ nhiên cũng chính tỉ lệ tăng trưởng kinh tế. Phn ln chương này tp trung vào các
hình trong đó các yếu tố sản xuất được kết hợp lại để sản xuất ra tổng sản lượng chung. Sau đó,
ta chuyn sang xem xét mt s mô hình trong đó các yếu tố sản xuất có th được sử dụng theo
những cách kết hợp khác nhau để sản xuất hai hàng hoá khác nhau: các sản phẩm nông nghiệp và
công nghiệp.
1 Robert E. Lucas, “On the Mechanics of Economic Development,” Journal of Monetary Economics 22, s 1 (tháng
7-1988), 3-42.
pf3
pf4
pf5
pf8
pf9
pfa
pfd
pfe
pff
pf12
pf13
pf14
pf15
pf16
pf17
pf18
pf19
pf1a
pf1b
pf1c
pf1d
pf1e
pf1f
pf20
pf21
pf22
pf23
pf24
pf25
pf26
pf27

Partial preview of the text

Download Kinh tế phát triển 2022 and more Study Guides, Projects, Research Economics in PDF only on Docsity!

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách phát triển Bài đọc

Kinh tế học của sự phát triển – 6 th^ ed. Ch. 4: Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Dwight H. Perkins et al. 1 Biên dịch: Kim Chi

Chương 4

CÁ CÁCC LLÝÝ TTHHUUYYẾẾTT TTĂĂNGNG TTRRƯƯỞỞNGNG KKIINNHH TTẾẾ

Trong phần mở đầu bài giảng Marshall ở đại học Cambridge năm 1985, nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Robert Lucas tập trung vào một vấn đề gây nhiều tranh cãi: sự khác biệt to lớn về thu nhập giữa các nước giàu và các nước nghèo trên thế giới. Ông nói trong ngạc nhiên: “Sự khác biệt giữa các nước về mức thu nhập trên đầu người thật quá lớn đến mức không thể tin được.” Sau khi mô tả sự tăng trưởng phi thường và chuyển đổi ở Đông Á từ năm 1960 giúp rút ngắn khoảng cách thu nhập với một số nước, ông nói:

Tôi không hiểu làm thế nào người ta có thể nhìn vào những con số như thế này mà không cho đó là những triển vọng hoàn toàn có thể xảy ra Liệu có một biện pháp nào đó mà chính phủ Ấn Độ có thể thực hiện để giúp nền kinh tế Ấn Độ tăng trưởng như Indonesia hay Ai Cập? Nếu thế, biện pháp đó chính xác ra là gì? Nếu không thì “bản chất” của Ấn Độ là gì mà làm cho đất nước ra như thế? Những hệ quả về phúc lợi con người liên quan đến những câu hỏi như thế này đang làm chúng ta băn khoăn: Một khi ta bắt đầu suy nghĩ về những điều đó thì thật khó mà còn có thể nghĩ đến bất kỳ điều gì khác nữa.^1

Câu hỏi của Lucas góp phần dấy lên cuộc tranh luận và các nghiên cứu về quá trình tăng trưởng kinh tế. Ta đã bắt đầu tìm hiểu những vấn đề này trong chương trước thông qua một vài quá trình cơ bản và xu hướng đặc trưng cho tăng trưởng kinh tế tại các nước thu nhập thấp. Ta đã nhấn mạnh rằng tăng trưởng phụ thuộc vào hai quá trình: sự tích luỹ tài sản (như vốn, lao động, và đất đai) và đầu tư những tài sản này một cách có năng suất hơn. Tiết kiệm và đầu tư là trọng tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng. Phương pháp của chúng ta chủ yếu là thực nghiệm, vì ta xem xét các số liệu về tăng trưởng và một số phát hiện then chốt trong nghiên cứu về các yếu tố xác định tăng trưởng giữa các nước. Chúng ta đã thấy rằng chính sách chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Ta đã nhấn mạnh rằng tăng trưởng không phải là phát triển, nhưng tăng trưởng là trung tâm của quá trình phát triển.

Chương này triển khai những ý tưởng trên đây một cách chính thức hơn thông qua việc giới thiệu lý thuyết cơ bản và các mô hình quan trọng nhất về tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng đến tư duy phát triển ngày nay. Các mô hình này mang lại cho ta một khuôn khổ nhất quán để tìm hiểu về quá trình tăng trưởng, bổ sung cho phương pháp thực nghiệm mà ta đã sử dụng trong chương trước. Ở đây, ta xác định mối quan hệ toán học cụ thể giữa lượng vốn và lao động, năng suất của vốn và lao động, và tổng sản lượng. Điều quan trọng là các mô hình này cũng tìm hiểu quá trình tăng thêm sự tích luỹ vốn và lao động, cùng với sự gia tăng năng suất của chúng; điều này làm thay đổi mô hình từ chỗ xác định mức sản lượng trở thành xác định tỉ lệ thay đổi sản lượng, mà lẽ dĩ nhiên cũng chính là tỉ lệ tăng trưởng kinh tế. Phần lớn chương này tập trung vào các mô hình trong đó các yếu tố sản xuất được kết hợp lại để sản xuất ra tổng sản lượng chung. Sau đó, ta chuyển sang xem xét một số mô hình trong đó các yếu tố sản xuất có thể được sử dụng theo những cách kết hợp khác nhau để sản xuất hai hàng hoá khác nhau: các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp.

(^1) Robert E. Lucas, “On the Mechanics of Economic Development,” Journal of Monetary Economics 22, số 1 (tháng

7-1988), 3-42.

Bài đọc Ch. 4: Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Dwight H. Perkins et al. Biên dịch: Kim Chi 2

Khi bắt đầu xem xét các mô hình này, ta cũng cần nhắc lại ngôn ngữ của Robert Solow, cha đẻ của lý thuyết tăng trưởng hiện đại, người từng viết: “Mọi lý thuyết đều phụ thuộc vào những giả định mà không nhất thiết là thực tế. Đó là điều làm nên các lý thuyết. Nghệ thuật lý thuyết hoá một cách thành công là xây dựng những giả định đã được đơn giản hoá vì không thể tránh khỏi theo một cách thức sao cho các kết quả cuối cùng không bị quá nhạy cảm.”^2 Những mô hình hay nhất đều đơn giản, nhưng vẫn truyền đạt được những ý nghĩa hữu hiệu về cách thức thực tế vận hành như thế nào. Trên tinh thần này, các mô hình được trình bày ở đây đưa ra những giả định mà tuy rõ ràng chẳng phải là thực tế, nhưng cho phép ta đơn giản hoá khuôn khổ và dễ dàng nắm bắt được các khái niệm và ý nghĩa then chốt. Ví dụ, ta bắt đầu bằng cách giả định rằng nền kinh tế nguyên mẫu của ta có một loại người lao động đồng nhất và một loại hàng hoá vốn, được kết hợp lại để sản xuất ra một sản phẩm tiêu chuẩn. Không một nền kinh tế nào trên thế giới có những đặc điểm thậm chí gần giống với những giả định này, nhưng việc lập giả định giúp ta cắt giảm nhiều chi tiết và đi đến khái niệm chính của lý thuyết tăng trưởng kinh tế.

MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG CƠ BẢN

Những mô hình tăng trưởng kinh tế và sản lượng kinh tế cơ bản nhất dựa vào một số phương trình liên hệ giữa tiết kiệm, đầu tư, và tăng trưởng dân số với qui mô lực lượng lao động và trữ lượng vốn và tiếp đến là với tổng sản lượng của một hàng hoá duy nhất. Những mô hình này thoạt đầu tập trung vào mức đầu tư, lao động, năng suất, và sản lượng. Sau đó việc xem xét sự thay đổi các biến này sẽ trở nên đơn giản. Trọng tâm sau cùng của chúng ta là tìm hiểu những yếu tố chính xác định sự thay đổi sản lượng, nghĩa là tỉ lệ tăng trưởng kinh tế. Phiên bản mô hình đơn giản mà ta xem xét ở đây có 5 phương trình: (1) hàm tổng sản lượng, (2) một phương trình xác định mức tiết kiệm, (3) đồng nhất thức tiết kiệm - đầu tư, (4) một phương trình liên hệ giữa đầu tư mới và thay đổi trữ lượng vốn, và (5) một biểu thức về tỉ lệ tăng trưởng lực lượng lao động.^3 Ta sẽ lần lượt xem xét từng phương trình này.

Các mô hình tăng trưởng tiêu chuẩn đều có trọng tâm là một hay một chuỗi hàm sản xuất. Ở cấp độ kinh tế vi mô hay từng doanh nghiệp riêng lẻ, các hàm sản xuất này liên hệ số người lao động và máy móc với qui mô sản lượng của doanh nghiệp. Ví dụ, hàm sản xuất của một nhà máy dệt may sẽ cho ta biết nhà máy có thể sản xuất thêm bao nhiêu sản lượng nếu tuyển dụng thêm 50 người lao động và mua thêm năm chiếc máy dệt nữa. Các hàm sản xuất thường được phát triển từ mối liên hệ giữa một số yếu tố đầu vào hữu hình nhất định và số sản lượng vật chất hữu hình được sản xuất ra từ số yếu tố đầu vào đó. Ở cấp độ quốc gia hay toàn bộ nền kinh tế, hàm sản xuất mô tả mối quan hệ giữa qui mô lực lượng lao động của một nước và giá trị trữ lượng vốn với mức tổng sản lượng nội địa của đất nước đó (tổng sản lượng). Mối quan hệ trong toàn nền kinh tế này được gọi là hàm tổng sản lượng.

Phương trình đầu tiên của chúng ta là một hàm tổng sản lượng. Nếu Y tượng trưng cho tổng sản lượng (và do đó cũng là tổng thu nhập), K là trữ lượng vốn, và L là cung lao động; ở dạng tổng quát nhất, hàm tổng sản lượng có thể được biểu thị như sau:

Y = F (K, L) [4-1]

Biểu thức này cho thấy rằng sản lượng là một hàm số (ký hiệu F) theo trữ lượng vốn và cung lao động. Khi trữ lượng vốn và cung lao động tăng trưởng, sản lượng sẽ gia tăng. Tăng trưởng kinh

(^2) Rober Solow, “A Contribution to the Theory of Economic Growth.” Quarterly Journal of Economics 70, (tháng 2-

1956), 65-94. (^3) Cách trình bày năm phương trình là dựa vào tài liệu giảng dạy do nhà kinh tế học Ngân hàng Thế giới Shantayanan

Devarajan biên soạn, người mà chúng ta vô cùng biết ơn.

Bài đọc Ch. 4: Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Dwight H. Perkins et al. Biên dịch: Kim Chi 4

Để xem điều này xảy ra thế nào, ta hãy tiếp tục ví dụ trên đây, trong đó tổng thu nhập là 10 tỷ USD và tiết kiệm (cũng như đầu tư) là 2 tỷ USD. Ví dụ, giá trị trữ lượng vốn hiện tại bằng 30 tỷ USD và tỉ lệ khấu hao hàng năm là 3 phần trăm. Trong ví dụ này, trữ lượng vốn tăng thêm 2 tỷ USD do đầu tư mới nhưng cũng giảm bớt 0,9 tỷ USD (= 3 phần trăm x 30 tỷ USD) do khấu hao. Phương trình 4-4 gộp hai tác động này vào với nhau, tính sự thay đổi trữ lượng vốn là K = I – (d x K) = 2 tỷ USD – (0,03 x 30 tỷ) = 1,1 tỷ USD. Như vậy, trữ lượng vốn tăng từ 30 tỷ USD lên đến 31,1 tỷ USD. Sau đó, giá trị trữ lượng vốn này được đưa vào hàm sản xuất trong phương trình 4-1, cho phép ta tính mức sản lượng Y mới.

Phương trình thứ 5, phương trình cuối cùng của mô hình tập trung vào cung lao động. Để đơn giản, ta giả định rằng lực lượng lao động tăng trưởng cũng nhanh hệt như tổng dân số. Trong một thời gian dài, giả định này tương đối chính xác. Nếu n bằng tỉ lệ tăng trưởng dân số và cũng là tỉ lệ tăng trưởng lực lượng lao động, thì sự thay đổi lực lượng lao động (L) được biểu thị bằng:

L = n x L [4-5]

Nếu lực lượng lao động gồm 1 triệu người và dân số (và lực lượng lao động) tăng trưởng 2 phần trăm, hàng năm lực lượng lao động tăng thêm 20.000 (= 1 triệu x 0,02) người lao động. Lực lượng lao động bây giờ gồm 1,02 triệu người; con số này có thể đưa vào hàm sản xuất để tính mức sản lượng mới.

Năm phương trình này tiêu biểu cho mô hình hoàn chỉnh.^4 Xét chung lại, chúng có thể được sử dụng để xem xét sự thay đổi dân số, tiết kiệm và đầu tư ban đầu ảnh hưởng như thế nào đến trữ lượng vốn và cung lao động, và sau cùng xác định sản lượng kinh tế. Tiết kiệm mới tạo ra thêm đầu tư; đầu tư tiếp đến lại bổ sung cho trữ lượng vốn và cho phép tăng sản lượng. Người lao động mới bổ sung thêm năng lực gia tăng sản xuất của nền kinh tế.

Một cách đơn giản hoá năm phương trình này là kết hợp các phương trình 4-2, 4-3 và 4-4. Mức tổng tiết kiệm (trong phương trình 4-2) xác định mức đầu tư trong phương trình 4-3, mà (cùng với khấu hao) sẽ xác định sự thay đổi trữ lượng vốn trong phương trình 4-4. Kết hợp ba phương trình này lại, ta có:

K = sY – d x K [4-6]

Phương trình này phát biểu rằng thay đổi trữ lượng vốn (K) bằng tiết kiệm (sY) trừ khấu hao (dK). Biểu thức này cho phép ta tính sự thay đổi trữ lượng vốn và trực tiếp đưa giá trị mới vào hàm tổng cầu trong phương trình 4-1.

MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG HARROD DOMAR

Như ta đã nhấn mạnh, hàm tổng cầu (thể hiện qua phương trình 4-1 trên đây) là trọng tâm của mọi mô hình tăng trưởng kinh tế. Hàm này có thể có nhiều dạng, tuỳ thuộc vào điều mà ta tin là mối quan hệ thực sự giữa các yếu tố sản xuất (K và L) và tổng sản lượng. Mối quan hệ này phụ thuộc vào tập hợp các hoạt động kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp nặng, lao động nhẹ, công nghiệp chế tạo, các quá trình công nghệ cao, dịch vụ), trình độ công nghệ, và các yếu tố khác.

(^4) Lưu ý rằng, vì mô hình có năm phương trình và năm biến số (Y, K, L, I, và S), mô hình luôn luôn có thể giải được.

Ngoài ra, có ba thông số cố định (d, s, và n), giá trị của chúng được giả định là cố định một cách ngoại sinh, hay bên ngoài hệ thống.

Bài đọc Ch. 4: Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Dwight H. Perkins et al. Biên dịch: Kim Chi 5

Quả thật, phần lớn cuộc tranh luận lý thuyết trong giới học thuật về tăng trưởng kinh tế đều tập trung về cách biểu thị nào là tốt nhất cho quá trình tổng sản xuất.

Hàm sản xuất có hệ số cố định

Một dạng đặc biệt về một hàm sản xuất đơn giản được biểu thị trong hình 4-1. Sản lượng trong hình này được biểu thị bằng các đường đẳng lượng , là các cách kết hợp giữa các yếu tố đầu vào (trong trường hợp này là lao động và vốn) tạo ra cùng những giá trị sản lượng như nhau. Ví dụ, trên đường đẳng lượng thứ nhất (đường trong cùng), ta kết hợp 10 triệu USD vốn (máy móc thiết bị) và 100 người lao động để sản xuất được 100.000 chiếc bàn phím mỗi năm (điểm a). Một lựa chọn khác, trên đường đẳng lượng thứ hai, ta cũng có thể kết hợp 20 triệu USD vốn và 200 người lao động để sản xuất 200.000 chiếc bàn phím (điểm b). Chỉ có hai đường đẳng lượng được biểu thị trong đồ thị này, nhưng ta có thể vẽ được vô số đường đẳng lượng, ứng với từng mức sản lượng khác nhau.

Hình 4-1 Hàm sản xuất với hệ số cố định Với sinh lợi không đổi theo qui mô, các đường đẳng lượng sẽ có dạng chữ L và hàm sản xuất sẽ là đường thẳng đi qua các điểm gấp khúc (kết hợp tối thiểu).

Lượng lao động (người-năm)

Dạng chữ L của đường đẳng lượng là đặc điểm của một loại hàm sản xuất đặc biệt được gọi là hàm sản xuất có hệ số cố định. Các hàm sản xuất này dựa vào giả định rằng vốn và lao động cần được sử dụng theo một tỉ lệ cố định để sản xuất ra các mức sản lượng khác nhau. Trong hình 4-1, với đường đẳng lượng đầu tiên, tỉ lệ vốn - lao động là 10 triệu USD : 100, nghĩa là 100. : 1. Nói cách khác, 100.000 USD vốn phải được kết hợp với một người lao động để sản xuất mức sản lượng cho trước. Đối với đường đẳng lượng thứ hai, tỉ lệ cũng như vậy: 20 triệu USD : 200, nghĩa là 100.000 : 1.

Lưu ý rằng, với loại hàm sản xuất này, nếu có thêm người lao động mà không đầu tư thêm vốn, thì sản lượng không tăng. Nhìn lại đường đẳng lượng đầu tiên, bắt đầu ở điểm gấp khúc (với 100 lao động và 10 triệu USD vốn). Nếu công ty bổ sung thêm người lao động (ví dụ tăng đến 200 công nhân) mà không tăng thêm máy móc, công ty sẽ di chuyển sang phải dọc theo đường đẳng lượng đầu tiên đến điểm c. Nhưng tại điểm này, hay bất kỳ điểm nào khác trên đường đẳng lượng này, công ty vẫn chỉ sản xuất được 100.000 chiếc bàn phím. Trong hàm sản xuất loại này,

Lượng vốn (triệu USD)

Đường đẳng lượng II (200.000 chiếc bàn phím) Đường đẳng lượng I (100. chiếc bàn phím)

Bài đọc Ch. 4: Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Dwight H. Perkins et al. Biên dịch: Kim Chi 7

năm của doanh nghiệp sẽ là 10 triệu USD. Thật khó mà tưởng tượng một hàm sản xuất nào đơn giản hơn. Hằng số v chính là tỷ số vốn- sản lượng, vì khi sắp xếp lại các số hạng trong phương trình 4-7, ta được:

v = K/Y [4-8]

Tỷ số vốn- sản lượng là một thông số rất quan trọng trong mô hình này, vì thế ta cần dành chút thời gian để giải thích về ý nghĩa của nó. Tỷ số này thực chất là số đo năng suất của vốn hay đầu tư. Trong ví dụ trong hình 4-1, cần có 10 triệu USD đầu tư vào nhà máy và thiết bị mới để sản xuất được số bàn phím trị giá 5 triệu USD, nghĩa là tỷ số vốn- sản lượng bằng 2:1 (hay 2). Hằng số v càng lớn có nghĩa là cần có nhiều vốn hơn để sản xuất cùng một giá trị sản lượng. Vì thế, nếu v bằng 4 thì cần có 20 triệu USD để sản xuất số bàn phím trị giá 5 triệu USD.

Tỷ số vốn- sản lượng cho ta một chỉ báo về mức độ thâm dụng vốn của quá trình sản xuất. Trong mô hình tăng trưởng cơ bản, tỷ số này khác nhau giữa các nước vì hai lý do: hoặc các nước sử dụng các công nghệ khác nhau để sản xuất cùng một hàng hoá, hoặc họ sản xuất một tổ hợp hàng hoá khác nhau. Ở nơi nào nhà nông sử dụng máy kéo để sản xuất bắp ngô, tỷ số vốn- sản lượng sẽ cao hơn nhiều so với ở nơi nhà nông dựa vào một số đông người lao động sử dụng cuốc xẻng và các công cụ bằng tay khác. Đồng thời, ở những nước sản xuất một tỷ trọng lớn các sản phẩm thâm dụng vốn (nghĩa là những sản phẩm đòi hỏi tương đối nhiều máy móc như ô tô, hoá dầu, sắt thép), v sẽ cao hơn ở những nước sản xuất những sản phẩm thâm dụng lao động (như hàng dệt may, nông sản cơ bản, và giày dép). Trong thực tiễn, khi các nhà kinh tế học chuyển từ con số v của mô hình sang việc đo lường thực tế trong thế giới thực, tỷ số vốn- sản lượng có thể khác nhau vì lý do thứ ba: sự khác biệt về hiệu quả. Một số đo v lớn có thể cho thấy việc sản xuất kém hiệu quả hơn khi vốn không được sử dụng một cách hữu hiệu hết mức. Một nhà máy với nhiều máy móc để không và các qui trình sản xuất tổ chức yếu kém sẽ có tỷ số vốn- sản lượng cao hơn so với một nhà máy được quản lý hiệu quả hơn.

Các nhà kinh tế học thường tính tỷ số vốn tăng thêm trên sản lượng (ICOR) để xác định tác động đối với sản lượng của lượng vốn tăng thêm. Tỷ số vốn tăng thêm trên sản lượng giúp ta đo lường năng suất của mỗi lượng vốn được tăng thêm, trong khi tỷ số vốn (bình quân) trên sản lượng thể hiện mối quan hệ trung bình giữa tổng trữ lượng vốn và tổng sản lượng của một đất nước. Trong mô hình Harrod Domar, vì tỷ số vốn- sản lượng được giả định là không đổi, nên tỷ số vốn bình quân trên sản lượng bằng tỷ số vốn tăng thêm trên sản lượng, vì thế ICOR = v.

Cho đến giờ, ta đã thảo luận về tổng sản lượng, chứ không phải sự tăng trưởng của sản lượng. Hàm sản xuất trong phương trình 4-7 có thể dễ dàng được biến đổi để liên hệ sự thay đổi sản lượng với sự thay đổi trữ lượng vốn:

Y = K/v [4-9]

Một cách đơn giản, tỉ lệ tăng trưởng sản lượng, g, là mức tăng thêm sản lượng chia cho tổng giá trị sản lượng, Y/Y. Nếu ta chia cả hai vế của phương trình 4-9 cho Y, ta có:

g = Y/Y = K/Yv [4-10]

Bài đọc Ch. 4: Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Dwight H. Perkins et al. Biên dịch: Kim Chi 8

Cuối cùng, từ phương trình 4-6, ta biết rằng sự thay đổi trữ lượng vốn K bằng tiết kiệm trừ khấu hao vốn (K = sY – d x K). Thay vế phải của phương trình 4-6 vào số hạng K trong trong phương trình 4-10 và đơn giản,^7 ta được mối quan hệ Harrod Domar cơ bản cho một nền kinh tế:

g = (s/v) – d [4-11]

Điểm cơ bản của phương trình này là quan điểm cho rằng vốn do đầu tư tạo ra là yếu tố cơ bản xác định tăng trưởng sản lượng, và tiết kiệm giúp ta có thể thực hiện được đầu tư.^8 Nó tập trung sự chú ý vào hai yếu tố then chốt của quá trình tăng trưởng: tiết kiệm (s) và năng suất của vốn (v). Thông điệp từ mô hình này rất rõ ràng: Tiết kiệm nhiều hơn và thực hiện việc đầu tư hữu hiệu hơn, thì nền kinh tế sẽ tăng trưởng.

Các nhà phân tích kinh tế có thể sử dụng mô hình này để dự đoán tăng trưởng hoặc để tính toán giá trị tiết kiệm cần thiết nhằm đạt được một tỉ lệ tăng trưởng mục tiêu. Bước thứ nhất là cố gắng ước lượng tỷ số vốn tăng thêm trên sản lượng (v) và tỉ lệ khấu hao (d). Với một tỉ lệ tiết kiệm cho trước, việc dự đoán tỉ lệ tăng trưởng thật đơn giản. Nếu tỉ lệ tiết kiệm (hay đầu tư) là 24 phần trăm, tỷ số vốn tăng thêm trên sản lượng là 3, và tỉ lệ khấu hao là 5 phần trăm, thì ta có thể kỳ vọng nền kinh tế sẽ tăng trưởng 3 phần trăm (vì 0,24/3 – 0,05 = 0,03).

Mô hình này có tác dụng trong thực tế như thế nào? Ta hãy xem Malaysia, từ năm 1999 đến 2001 có tỉ lệ đầu tư vào khoảng 27 phần trăm và đạt được tăng trưởng GDP khoảng 5,0 phần trăm một năm. Giả sử tỉ lệ khấu hao là 5 phần trăm, nghĩa là tỷ số vốn tăng thêm trên sản lượng v = 2,7.^9 Liệu những con số này có giúp chính phủ Malaysia dự đoán tỉ lệ tăng trưởng năm 2002? Năm 2002, tỉ lệ đầu tư là 24,4 phần trăm, nên mô hình Harrod Domar sẽ dự đoán tăng trưởng 4, phần trăm (g = 0,244/2,7 – 0,05). Tỉ lệ tăng trưởng thực tế năm 2002 là 4,1 phần trăm, rất gần với dự đoán của mô hình. Tuy nhiên, như ta sẽ thấy sau đây, mô hình này không luôn luôn chính xác.

Ưu điểm và nhược điểm của mô hình Harrod Domar

Ưu điểm cơ bản của mô hình Harrod Domar là tính đơn giản của nó. Yêu cầu số liệu thì ít, và phương trình dễ dàng sử dụng và ước lượng. Đồng thời, như ta thấy với ví dụ về Malaysia, mô hình có thể cho những ước tính chính xác từ năm này sang năm sau. Nói chung, nếu không có những cú sốc kinh tế nghiêm trọng (như hạn hán, khủng hoảng tài chính, hay sự thay đổi lớn của giá xuất khẩu hay nhập khẩu), mô hình có thể ước lượng tỉ lệ tăng trưởng kỳ vọng cho hầu hết các nước trong những thời đoạn rất ngắn (một vài năm). Một ưu điểm khác của mô hình là nó tập trung vào vai trò cốt lõi của tiết kiệm. Như đã thảo luận trong chương 3, các quyết định cá nhân về việc tiết kiệm bao nhiêu và tiêu dùng bao nhiêu từ thu nhập là trọng tâm của quá trình tăng trưởng. Người ta thích tiêu dùng ngay bây giờ hơn là mai sau, nhưng càng tiêu dùng nhiều, thì càng có ít tiết kiệm để tài trợ đầu tư. Mô hình Harrod Domar cho ta thấy rõ rằng tiết kiệm là quan trọng để tăng trưởng thu nhập theo thời gian.

Tuy nhiên, mô hình có một vài nhược điểm chính. Một nhược điểm được suy ra trực tiếp từ sự chú trọng nhiều vào tiết kiệm. Cho dù tiết kiệm là điều kiện cần để tăng trưởng, nhưng dạng đơn giản của mô hình ngụ ý rằng tiết kiệm cũng là điều kiện đủ để tăng trưởng, thế nhưng không phải

(^7) Thay phương trình 4-6 vào 4-10, ta được g = (sY – d x K)/Y x 1/v, ta đơn giản thành g = (s – d x K/Y) x 1/v. Vì

K/Y = v, ta có g = (s – dv) x 1/v, từ đó dẫn đến g = s/v – d. (^8) Tìm đọc một đóng góp ban đầu quan trọng cho việc thảo luận về tầm quan trọng của ích luỹ vốn đối với quá trình

tăng trưởng trong nghiên cứu của Joan Robinson, The Accumulation of Capital (London: Macmillan, 1956). (^9) Vì g = s/v – d, nên v = s/(g + d). Đối với Malaysia từ năm 1999 đến 2001, v = 0,27/(0,05 + 0,05) = 2,7.

Bài đọc Ch. 4: Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Dwight H. Perkins et al. Biên dịch: Kim Chi 10

động càng tốt và sử dụng tương đối ít vốn. Ví dụ, một nước chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp thâm dụng lao động sẽ có tỉ lệ v thấp. Khi nền kinh tế tăng trưởng và thu nhập trên đầu người tăng lên, thặng dư lao động giảm dần và nền kinh tế dần dần dịch chuyển hướng tới sản xuất thâm dụng vốn hơn. Vì thế, ICOR sẽ dịch chuyển hướng lên. Như vậy, tỉ lệ v cao không nhất thiết có nghĩa là phi hiệu quả hay tăng trưởng chậm. ICOR cũng có thể dịch chuyển thông qua các cơ chế thị trường, khi giá lao động và vốn thay đổi nhằm đáp ứng trước sự thay đổi của cung. Khi tăng trưởng diễn ra, tiết kiệm có xu hướng trở nên dồi dào hơn và vì thế, giá vốn sẽ giảm xuống trong khi việc làm và tiền lương tăng lên. Do đó, tất cả các nhà sản xuất sẽ ngày càng tiết kiệm lao động hơn và tăng cường sử dụng vốn nhiều hơn, và ICOR có xu hướng tăng lên.

Ta hãy xem lại ví dụ về Malaysia. ICOR thay đổi từ gần 1,6 trong giai đoạn 1965-1980 lên 2, trong giai đoạn 1980-1995, tiếp tục tăng lên 2,7 trong giai đoạn 1999-2001 khi Malaysia dần dần dịch chuyển vào các qui trình sản xuất thâm dụng vốn hơn. Nếu tiếp tục sử dụng ICOR giai đoạn 1965-80 cho năm 2002 sẽ hết sức sai lầm và dẫn đến hiểu sai đáng kể về quá trình tăng trưởng. Cơ cấu của nền kinh tế đã thay đổi nhiều trong thời gian đó và cùng với nó là sự thay đổi của ICOR. Thái Lan cho ta một ví dụ tương tự, được mô tả trong hộp 4-1.

Một trong những hệ quả của sự cứng nhắc này, mô hình Harrod Domar có xu hướng trở nên ngày càng kém chính xác trong những quãng thời gian dài vì ICOR thực tế thay đổi, và cùng với nó, tỷ số vốn trên lao động cũng thay đổi. Trong một thế giới với các hàm sản xuất có hệ số cố định, chẳng có cửa nào để cho một giám đốc nhà máy gia tăng sản lượng thông qua tuyển dụng thêm người lao động mà không mua thêm máy móc cùng với người lao động mới, hay thông qua mua thêm máy móc cho những người lao động hiện tại sử dụng. Các hàm sản xuất cố định không cho phép bất kỳ sự thay thế nào giữa vốn và lao động trong quá trình sản xuất. Lẽ dĩ nhiên, trong thế giới thực tế, chí ít cũng có sự thay thế giữa lao động và vốn trong hầu hết các quá trình sản xuất. Như ta sẽ thấy trong phần tiếp theo, việc bổ sung thêm đặc điểm này vào mô hình cho phép ta tìm hiểu được nhiều hơn về quá trình phát triển.

Hộp 4-1 Tăng trưởng kinh tế ở Thái Lan

Trong thập niên 60, nền kinh tế điền địa Thái Lan phụ thuộc nhiều vào lúa gạo, bắp ngô, cao su, và các nông sản khác. Khoảng ba phần tư dân số Thái Lan nhận được thu nhập từ các hoạt động nông nghiệp. GDP trên đầu người năm 1960 (đo theo ngang giá sức mua năm 1996) vào khoảng 1. USD, không bằng một phần mười thu nhập bình quân ở nước Mỹ. Tuổi thọ là 53 năm và tỉ lệ tử vong sơ sinh là 103 trên 1.000 ca sinh nở. Hiếm có nhà quan sát nào kỳ vọng Thái Lan sẽ phát triển nhanh.

Tuy nhiên, từ giữa thập niên 60, nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng nhanh chóng (nếu không muốn nói là luôn luôn tăng đều), nhờ sự quản lý kinh tế tương đối vững chắc và môi trường bên ngoài thuận lợi. Chính phủ thường xuyên đạt được thặng dư trên tài khoản vãng lai của ngân sách và sử dụng lượng tiền này (cộng với dòng viện trợ nước ngoài vừa phải) để tài trợ đầu tư vào đường sá nông thôn, thủy lợi, điện, viễn thông, và cơ sở hạ tầng cơ bản khác. Chí ít cho đến giữa thập niên 90, các chính sách thu chi ngân sách, tiền tệ và tỷ giá hối đoái của chính phủ đã giữ cho nền kinh tế vĩ mô tương đối ổn định với lạm phát khá thấp, bất chấp những xáo trộn do các cú sốc dầu thế giới trong thập niên 70 và

  1. Bắt đầu vào thập niên 70, chính phủ bắt đầu bãi bỏ các biện pháp hạn chế ngoại thương và đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu công nghiệp chế tạo thâm dụng lao động. Những sản phẩm này tìm được thị trường có sẵn trong nền kinh tế Nhật đang bùng nổ của thập niên 80 và mang lại số việc làm ngày càng tăng cho người lao động Thái.

Khả năng đầu tư và phát triển trữ lượng vốn theo chiều sâu của Thái Lan phụ thuộc vào năng lực tiết kiệm của họ. Tỉ lệ tiết kiệm của đất nước bình quân vào khoảng 20 phần trăm vào thập niên 60, khá cao đối với các nước đang phát triển, và tăng dần theo thời gian đến mức bình quân 35 phần trăm vào

Bài đọc Ch. 4: Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Dwight H. Perkins et al. Biên dịch: Kim Chi 11

thập niên 90. Tỉ lệ tiết kiệm cao này, cùng với những chính sách kinh tế tương đối thận trọng và sự bùng nổ kinh tế của Nhật Bản, đã hỗ trợ cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế rất nhanh.

Tuy nhiên, kinh nghiệm phát triển của Thái Lan cũng chẳng phải có được sự bình yên hoàn hảo. Giữa năm 1997, một cuộc khủng hoảng tài chính lớn nổ ra. Vay mượn ngắn hạn khổng lồ từ nước ngoài kết hợp với tỷ giá hối đoái cố định và các thể chế tài chính yếu kém đã dẫn đến nổ tung bong bóng bất động sản, vốn tháo chạy ồ ạt, đồng bạt Thái mất giá mạnh, và suy thoái nghiêm trọng (xem chương 15). Từ bao giờ, Thái Lan đã trở thành nạn nhân của chính thành công của mình, với sự tăng trưởng nhanh chóng đã thu hút số lượng nhà đầu tư đông đảo tìm kiếm lợi nhuận mau lẹ, những người cũng nhanh chóng tháo chạy một khi bong bóng bắt đầu vỡ tan. Sau hai năm tăng trưởng âm (với GDP giảm 10 phần trăm năm 1998), nền kinh tế bắt đầu hồi phục và tăng trưởng bật lên 3,5 phần trăm từ năm 1999 đến 2003.

Trong một thời gian dài hơn từ năm 1960 đến 2003, tăng trưởng trên đầu người bình quân 4,6 phần trăm, cho nên thu nhập bình quân ở Thái Lan hiện cao hơn 6 lần so với năm 1960. Tuổi thọ tăng đến 69 năm, tỉ lệ tử vong sơ sinh giảm còn 24 trên 1000, và tỉ lệ người trưởng thành biết chữ đạt 93 phần trăm. Trong thời kỳ này, cơ cấu nền kinh tế đã thay đổi đáng kể. Cho đến năm 2003, công nghiệp chế tạo chiếm hơn 30 phần trăm GDP, so với năm 1965 chỉ có 14 phần trăm, trong khi tỷ trọng nông sản trong GDP giảm tương ứng. Thành phần hàng xuất khẩu thay đổi, giảm lúa gạo, bắp ngô và các nông sản khác để hướng tới các sản phẩm công nghiệp chế tạo thâm dụng lao động, hiện chiếm hơn 80 phần trăm xuất khẩu. Như mô hình Harrod Domar và mô hình Solow dự đoán, tỉ lệ tiết kiệm cao và nhờ vậy tích luỹ vốn cao của Thái Lan đã gắn liền với sự gia tăng ngoạn mục của sản lượng (và thu nhập) trên đầu người. Tuy nhiên, trái với mô hình Harrod Domar, ICOR không giữ nguyên như cũ. Khi trữ lượng vốn tăng và nền kinh tế dịch chuyển hướng tới các kỹ thuật sản xuất thâm dụng vốn hơn, ICOR tăng từ 2,6 trong thập niên 70 lên 4,1 trong thập niên 90. ICOR tăng cho thấy rằng, khi nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng và mức vốn trên lao động tăng, cần có sự gia tăng vốn mới nhiều hơn để mang lại một mức tăng cho trước của sản lượng, một đặc điểm được phản ánh trong mô hình tăng trưởng kinh tế tân cổ điển.

Nhược điểm sau cùng của mô hình Harrod Domar là không có vai trò của tiến bộ công nghệ. Tiến bộ công nghệ nói chung vẫn được xem là đóng một vai trò then chốt trong tăng trưởng dài hạn và phát triển thông qua góp phần gia tăng năng suất của tất cả các yếu tố sản xuất. Trong hình 4-1, năng suất yếu tố sản xuất tăng lên và thay đổi kỹ thuật có thể được biểu thị bằng sự dịch chuyển vào trong của từng đường đẳng lượng hướng tới gốc toạ độ, ngụ ý rằng sẽ cần có ít lao động và ít vốn hơn để sản xuất cùng một mức sản lượng như trước. Cách đơn giản nhất để nắm bắt điều này trong khung hạch toán Harrod Domar là giới thiệu một ICOR nhỏ hơn, nhưng lẽ dĩ nhiên, điều này sẽ mâu thuẫn với ý tưởng về một ICOR cố định.

Bất chấp những nhược điểm này, mô hình Harrod Domar vẫn được sử dụng nhiều một cách ngạc nhiên. Nhà kinh tế học William Easterly chứng minh bằng tư liệu về việc Ngân hàng Thế giới và các tổ chức khác nhau đã sử dụng mô hình này để tính “hố cách tài trợ” giữa giá trị tiết kiệm hiện có và giá trị đầu tư cần thiết để đạt được một tỉ lệ tăng trưởng mục tiêu.^10 Ông chứng minh việc sử dụng mô hình một cách đơn giản và đôi khi cẩu thả có thể dẫn đến những phân tích kém cỏi và những kết luận sai lầm như thế nào. Quả thật, những nhà phân tích say mê tính đơn giản của các mô hình có xu hướng bỏ qua các nhược điểm của chúng khi áp dụng chúng vào đời sống thực tế.

(^10) Tìm đọc tài liệu của William Easterley, “Aid for Investment,” The Elusive Quest for Growth (Cambridge, MA:

nhà xuất bản MIT, 2001), chương 2; và William Easterley, “The Gost of the Financing Gap: Testing the Growth Model of the International Financial Institutions,” Journal of Development Economics 60, số 2 (tháng 12-1999), 423-38.

Bài đọc Ch. 4: Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Dwight H. Perkins et al. Biên dịch: Kim Chi 13

Hình 4-2 Hàm sản xuất tân cổ điển (hệ số biến đổi) Thay vì đòi hỏi các tỉ lệ yếu tố sản xuất cố định như trong hình 4-1, trong hình này, sản lượng có thể đạt được bằng những cách kết hợp vốn và lao động khác nhau. Hàm này được gọi là hạm sản xuất tân cổ điển. Các đường đẳng lượng có dạng đường cong, chứ không phải dạng chữ L.

Lượng lao động (người- năm)

Các đường đẳng lượng làm nền tảng cho hàm sản xuất tân cổ điển được trình bày trong hình 4-2. Lưu ý rằng các đường đẳng lượng này là đường cong, chứ không phải có dạng chữ L như trong mô hình hệ số cố định. Trong hình này, tại điểm a, 10 triệu USD vốn và 100 người lao động kết hợp lại sản xuất được 100.000 chiếc bàn phím, trị giá 5 triệu USD (vì như đã nêu trong phần trên, mỗi chiếc bàn phím có giá 50 USD). Bắt đầu từ điểm này, ta có thể tăng sản lượng bằng bất kỳ cách nào trong ba cách. Nếu các giám đốc doanh nghiệp quyết định gia tăng sản lượng theo tỉ lệ yếu tố sản xuất không đổi và di chuyển từ điểm a đến điểm b trên đường đẳng lượng II để sản xuất 200.000 chiếc bàn phím, tình huống này cũng giống hệt như trong trường hợp tỉ lệ cố định trong hình 4-1. Tỷ số vốn- sản lượng ở điểm a và điểm b đều bằng 2:1 như trước đây (10 triệu USD vốn sản xuất được 5 triệu USD bàn phím tại điểm a, và 20 triệu USD vốn sản xuất được 10 triệu USD bàn phím tại điểm b). Lưu ý rằng mô hình Solow vẫn giữ lại giả định sinh lợi không đổi theo qui mô giống như trong mô hình Harrod Domar, cho nên tăng gấp đôi lao động và vốn dẫn đến tăng gấp đôi sản lượng. Nhưng thông qua bỏ giả định hệ số cố định, việc sản xuất 200.000 chiếc bàn phím cũng có thể đạt được bằng cách sử dụng sự kết hợp khác giữa vốn và lao động. Ví dụ, doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều lao động hơn và ít vốn hơn (một phương pháp sản xuất thâm dụng lao động hơn), như tại điểm c trên đường đẳng lượng II. Trong trường hợp đó, tỷ số vốn- sản lượng giảm xuống còn 1,7:1 (cần 17 triệu USD vốn để sản xuất 10 triệu USD bàn phím). Một lựa chọn khác, doanh nghiệp cũng có thể chọn phương pháp sản xuất thâm dụng vốn hơn, như tại điểm d trên đường đẳng lượng II, ở đó, tỷ số vốn- sản lượng sẽ tăng lên đến 2,4:1.

Nếu hàm sản xuất của một đất nước là hàm tân cổ điển, thì tỷ số vốn- sản lượng trở thành một biến số chịu ảnh hưởng của giá tương đối, các chính sách, và các yếu tố khác. Ta hãy xem xét các hàm sản xuất như trong hình 4-2 nhìn từ cấp độ ngành, chính sách chính phủ có thể khuyến khích các nhà sản xuất công nghiệp và nhà nông sử dụng các công nghệ thâm dụng lao động hơn (ví dụ như thông qua tăng thuế suất khi mua máy móc thiết bị). Ở cấp độ tổng thể nền kinh tế, thay đổi chính sách có thể khuyến khích các công nghệ thâm dụng lao động cũng như đầu tư vào

Lượng vốn (triệu USD)

Đường đẳng lượng II (200.000 chiếc bàn phím) Đường đẳng lượng I (100. chiếc bàn phím)

Bài đọc Ch. 4: Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Dwight H. Perkins et al. Biên dịch: Kim Chi 14

những ngành thâm dụng lao động và vì thế làm giảm nhu cầu đối với đầu tư và tiết kiệm trên cả hai bình diện. Loại công cụ mà các nhà hoạch định chính sách sử dụng để cố gắng giảm tỷ số vốn- sản lượng sẽ được thảo luận sâu xa hơn trong các chương sau.

Các phương trình cơ bản của mô hình Solow

Mô hình Solow được hiểu một cách dễ dàng nhất thông qua trình bày tất cả các biến số chính theo giá trị trên một người lao động (ví dụ, sản lượng trên lao động và vốn trên lao động). Để làm điều này, ta chia cả hai vế của hàm sản xuất trong phương trình 4-1 cho L để phương trình có dạng:

Y/L = F (K/L, 1) [4-12]

Phương trình cho thấy rằng sản lượng trên lao động là một hàm số theo vốn trên lao động.^13 Nếu ta sử dụng các mẫu tự thường (không viết hoa) để tiêu biểu cho số lượng trên một lao động, thì y là sản lượng trên lao động (nghĩa là y = Y/L), và k là vốn trên lao động (k = K/L). Điều này cho ta phương trình thứ nhất của mô hình Solow, trong đó hàm sản xuất có thể viết đơn giản là:

Y = f(k) [4-13]

Mô hình Solow giả định hàm sản xuất có đặc điểm quen thuộc sinh lợi giảm dần theo vốn. Với cung lao động cố định, việc bố trí một số máy móc ban đầu cho người lao động làm việc sẽ dẫn đến gia tăng sản lượng. Nhưng khi bố trí thêm nhiều máy móc hơn cho những người lao động này, mức tăng sản lượng của từng cỗ máy mới sẽ ngày càng nhỏ dần. Hàm tổng sản xuất với đặc điểm này được biểu diễn bằng đồ thị trong hình 4-3. Trục hoành tiêu biểu cho vốn trên lao động (k), và trục tung thể hiện sản lượng trên lao động (y). Độ dốc của đường cong giảm dần khi trữ lượng vốn tăng lên, phản ánh giả định về sản lượng biên giảm dần của vốn. Sự di chuyển sang phải trên trục hoành sẽ mang lại những mức tăng sản lượng trên lao động ngày càng nhỏ dần.

(^13) Ta có thể chia cả hai vế cho L vì mô hình Solow (cũng như mô hình Harrod Domar) giả định hàm sản xuất có sinh

lợi không đổi theo qui mô và có đặc điểm là wY = F(wK, wL). Để biểu thị mô hình Solow theo giá trị trên một lao động, ta cho w = 1/L.

Bài đọc Ch. 4: Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Dwight H. Perkins et al. Biên dịch: Kim Chi 16

2.  k có quan hệ nghịch biến với tăng trưởng dân số. Điều này được biểu thị bằng giá trị –

nk. Mỗi năm, do tăng trưởng dân số và tăng trưởng lực lượng lao động, nên ta có nL người lao động mới. Nếu không có đầu tư mới, sự gia tăng lực lượng lao động có nghĩa là vốn trên lao động (k) sẽ giảm. Phương trình 4-14 phát biểu rằng vốn trên lao động giảm chính xác bằng nk.

  1. Khấu hao làm hao mòn trữ lượng vốn. Mỗi năm, giá trị vốn trên lao động giảm một lượng bằng – dk, đơn giản là do khấu hao (hao mòn vốn).

Do đó, tiết kiệm (và đầu tư) giúp bổ sung thêm vốn trên lao động, trong khi tăng trưởng lực lượng lao động và khấu hao làm giảm vốn trên lao động. Khi tiết kiệm trên đầu người, sy, lớn hơn giá trị vốn mới cần thiết để bù đắp cho sự tăng trưởng lực lượng lao động và khấu hao, (n + d)k, thì k là một số dương. Điều này có nghĩa là vốn trên lao động k tăng lên.

Quá trình mà qua đó nền kinh tế gia tăng giá trị vốn trên lao động, k, được gọi là phát triển vốn theo chiều sâu. Những nền kinh tế mà trong đó người lao động tiếp cận được với nhiều máy móc, máy vi tính, xe tải, và các thiết bị khác sẽ có cơ sở vốn sâu hơn những nền kinh tế có ít máy móc, và những nền kinh tế này có thể sản xuất nhiều sản lượng trên lao động hơn.

Tuy nhiên, trong một số nền kinh tế, giá trị tiết kiệm chỉ đủ để cung cấp giá trị vốn như cũ cho những người lao động mới và bù đắp cho khấu hao. Sự gia tăng trữ lượng vốn mà chỉ đủ để duy trì sự mở rộng lực lượng lao động và khấu hao được gọi là phát triển vốn theo chiều rộng (liên quan đến sự “mở rộng” của cả tổng giá trị vốn và qui mô lực lượng lao động). Sự phát triển vốn theo chiều rộng xảy ra khi sy đúng bằng (n +d)k, có nghĩa là k không thay đổi. Sử dụng thuật

ngữ này, phương trình 4-14 có thể được phát biểu lại là sự phát triển vốn theo chiều sâu (  k) sẽ

bằng tiết kiệm trên lao động (sy) trừ cho giá trị cần thiết để phát triển vốn theo chiều rộng [(n + d)k].

Một đất nước có tỉ lệ tiết kiệm cao dễ dàng phát triển cơ sở vốn theo chiều sâu và nhanh chóng gia tăng giá trị vốn trên lao động, qua đó mang lại nền tảng phát triển sản lượng. Lấy ví dụ ở Singapore, nơi có tỉ lệ tiết kiệm bình quân hơn 40 phần trăm trong nhiều năm, chẳng khó khăn gì để cung ứng vốn cho lực lượng lao động tăng trưởng và bù đắp khấu hao, đồng thời vẫn còn dư lại nhiều để cung ứng thêm vốn cho những người lao động hiện tại. Ngược lại, Kenya, với tỉ lệ tiết kiệm khoảng 15 phần trăm (và thấp hơn trong những năm gần đây), gần như chẳng còn lại bao nhiêu tiết kiệm để phát triển vốn theo chiều sâu sau khi cung ứng máy móc cho người lao động mới và bù đắp khấu hao. Vì thế, vốn trên lao động không tăng trưởng nhanh, mà sản lượng (thu nhập) trên lao động cũng chẳng tăng trưởng mau lẹ. Một phần do sự khác biệt lớn về tỉ lệ tiết kiệm này, sản lượng trên đầu người ở Singapore tăng bình quân 6,3 phần trăm một năm từ năm 1960 đến 2002, trong khi tăng trưởng của Kenya bình quân khoảng 1 phần trăm.

Ta có thể tóm tắt hai phương trình cơ bản của mô hình Solow như sau. Phương trình thứ nhất (y = f(k)) phát biểu rằng sản lượng trên lao động (hay thu nhập trên đầu người) phụ thuộc vào giá trị vốn trên lao động. Phương trình thứ hai, k = sy – (n + d)k, phát biểu rằng thay đổi vốn trên lao động phụ thuộc vào tiết kiệm, tỉ lệ tăng trưởng dân số, và khấu hao. Như vậy, cũng giống như trong mô hình Harrod Domar, tiết kiệm đóng vai trò trung tâm trong mô hình Solow. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa tiết kiệm và tăng trưởng không phải là quan hệ tuyến tính, do sinh lợi giảm dần theo vốn trong hàm sản xuất. Ngoài ra, mô hình Solow còn giới thiệu vai trò của tỉ lệ tăng trưởng dân số và cho phép có sự thay thế giữa vốn và lao động trong quá trình tăng trưởng.

Bây giờ ta đã được trang bị kiến thức về mô hình cơ bản, ta có thể tiếp tục phân tích ảnh hưởng của sự thay đổi tỉ lệ tiết kiệm, tăng trưởng dân số, và khấu hao đối với sản lượng kinh tế và tăng

Bài đọc Ch. 4: Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Dwight H. Perkins et al. Biên dịch: Kim Chi 17

trưởng kinh tế. Việc này được thực hiện một cách dễ dàng nhất thông qua xem xét mô hình dưới dạng đồ thị.

Biểu đồ Solow

Biểu đồ của mô hình Solow bao gồm ba đường biểu diễn, được trình bày trong hình 4-4. Thứ nhất là hàm sản xuất y = f(k), được cho bởi phương trình 4-13. Thứ hai là hàm tiết kiệm, được suy ra trực tiếp từ hàm sản xuất. Đường cong mới thể hiện tiết kiệm trên đầu người, sy, được tính bằng cách nhân hai vế của phương trình 4-13 cho tỉ lệ tiết kiệm, nghĩa là ta có sy = s x f(k). Vì tiết kiệm được giả định là một tỉ lệ cố định của thu nhập (với s nằm trong khoảng từ 0 tới 1), hàm tiết kiệm có dạng giống như hàm sản xuất nhưng dịch chuyển xuống dưới theo hệ số s. Đường thứ ba là đường (n + d)k, là đường thẳng đi qua gốc tọa độ với độ dốc là (n + d). Đường này tượng trưng cho giá trị vốn mới cần phải bổ sung cho sự tăng trưởng lực lượng lao động và khấu hao để duy trì vốn trên lao động (k) không đổi. Lưu ý rằng đường thứ hai và thứ ba là biểu diễn bằng đồ thị cho hai số hạng bên phải của phương trình 4-14.

Đường thứ hai và thứ ba cắt nhau tại điểm A, ở đó k = k 0. (Lưu ý rằng, trên hàm sản xuất nằm phía trên đường sy, k = k 0 tương ứng với một điểm ở phía trên điểm A, có toạ độ y = y 0 trên trục tung.) Ở điểm A, sy đúng bằng (n + d)k, cho nên vốn trên lao động không thay đổi và k giữ nguyên không đổi. Ở những điểm khác dọc theo trục hoành, khoảng cách thẳng đứng giữa đường sy và đường (n + d)k tiêu biểu cho sự thay đổi vốn trên lao động. Về phía bên trái điểm A (ví dụ như điểm có k = k 1 và trên hàm sản xuất y = y 1 ), giá trị tiết kiệm trên đầu người trong nền kinh tế (sy) lớn hơn giá trị tiết kiệm cần thiết để cung ứng cho người lao động mới và bù đắp khấu hao (n + d)k. Vì thế, giá trị vốn trên lao động (k) tăng lên (phát triển vốn theo chiều sâu) và nền kinh tế di chuyển sang phải dọc theo trục hoành. Nền kinh tế tiếp tục di chuyển sang phải khi đường sy vẫn còn nằm bên trên đường (n + d)k, cho tới khi nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng tại điểm A. Xét theo hàm sản xuất, sự di chuyển sang phải có nghĩa là gia tăng sản lượng trên lao động (y, hay thu nhập trên đầu người) từ y 1 đến y 0. Về phía bên phải điểm A (ví dụ như điểm có k = k 2 và trên hàm sản xuất y = y 2 ), tiết kiệm trên đầu người nhỏ hơn giá trị cần thiết cho người lao động mới và khấu hao, vì thế vốn trên lao động giảm và nền kinh tế di chuyển sang trái dọc theo trục hoành. Một lần nữa, sự di chuyển này tiếp tục cho đến khi nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng tại điểm A. Sự di chuyển sang trái tương ứng với sự sụt giảm sản lượng trên người lao động từ điểm y 2 đến y 0.

Điểm A là điểm duy nhất có giá trị tiết kiệm mới, sy, đúng bằng giá trị đầu tư mới cần thiết cho sự tăng trưởng lực lượng lao động và khấu hao. Do đó, ở điểm này, giá trị vốn trên lao động k giữ nguyên không đổi. Tiết kiệm trên lao động (trên trục tung của hàm tiết kiệm) cũng giữ nguyên không đổi, và sản lượng trên lao động (hay thu nhập trên đầu người) cũng không đổi trên hàm sản xuất, với y = y 0. Vì thế, điểm A được gọi là trạng thái ổn định của mô hình Solow. Sản lượng trên đầu người ở trạng thái dừng (y 0 ) thường được gọi là mức sản lượng trên lao động ở trạng thái ổn định, dài hạn, hay tiềm năng.

Bài đọc Ch. 4: Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Dwight H. Perkins et al. Biên dịch: Kim Chi 19

đó thu nhập hội tụ giữa những nước có những đặc điểm chung quan trọng, như chính sách ngoại thương tương tự, cho thấy rằng họ hoạt động trên những hàm sản xuất tương tự như nhau.

Thay đổi tỉ lệ tiết kiệm và tỉ lệ dân số trong mô hình Solow

Cả mô hình Solow và mô hình Harrod Domar đều đưa tiết kiệm (và đầu tư) vào trọng tâm của quá trình tăng trưởng. Trong mô hình Harrod Domar, sự gia tăng tỉ lệ tiết kiệm sẽ chuyển biến trực tiếp (và tuyến tính) thành sự gia tăng tổng sản lượng. Tác động của tỉ lệ tiết kiệm cao trong mô hình Solow là gì?

Hình 4-5 Gia tăng tỉ lệ tiết kiệm trong mô hình Solow Sự gia tăng tiết kiệm tiết kiệm từ s lên s’ dẫn đến sự dịch chuyển hướng lên của đường phát triển vốn theo chiều sâu, cho nên vốn trên lao động tăng từ k 0 đến k 1.

Như thể hiện qua hình 4-5, gia tăng tỉ lệ tiết kiệm từ s đến s’ sẽ làm dịch chuyển hàm tiết kiệm sy lên s’y, mà không làm dịch chuyển hàm sản xuất hay đường phát triển vốn theo chiều rộng (n + d)k. Sự gia tăng tỉ lệ tiết kiệm có nghĩa là tiết kiệm trên lao động (và đầu tư trên lao động) bây giờ lớn hơn so với (n + d)k, cho nên k tăng dần. Nền kinh tế di chuyển đến trạng thái cân bằng dài hạn mới tại điểm B. Trong quá trình này, vốn trên lao động tăng từ k 0 đến k 3 và sản lượng trên lao động tăng từ y 0 đến y 3. Nền kinh tế thoạt đầu tăng trưởng với tỉ lệ nhanh hơn tỉ lệ tăng trưởng ở trạng thái ổn định (n), cho đến khi nền kinh tế di chuyển đến điểm B; ở điểm này, tỉ lệ tăng trưởng dài hạn trở lại bằng n. Như vậy, tỉ lệ tiết kiệm cao hơn dẫn đến nhiều đầu tư hơn, trữ lượng vốn trên lao động cao hơn về lâu dài, và mức thu nhập (hay sản lượng) trên lao động cao hơn về lâu dài. Nói cách khác, mô hình Solow dự đoán rằng những nền kinh tế tiết kiệm nhiều sẽ có mức sống cao hơn so với những nước ít tiết kiệm. (Tuy nhiên, gia tăng thu nhập trên đầu người sẽ nhỏ hơn so với trong mô hình Harrod Domar ứng với mức tăng tỉ lệ tiết kiệm tương tự, vì mô hình Solow có sinh lợi giảm dần trong sản xuất.) Tiết kiệm cao hơn cũng dẫn đến sự gia tăng tạm thời của tỉ lệ tăng trưởng kinh tế khi trạng thái dừng di chuyển từ A đến B. Tuy nhiên, sự gia tăng tỉ lệ tiết kiệm không dẫn đến sự gia tăng lâu dài của tỉ lệ tăng trưởng sản lượng dài hạn, nó vẫn ở mức n.

Bài đọc Ch. 4: Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Dwight H. Perkins et al. Biên dịch: Kim Chi 20

Biểu đồ Solow cũng có thể được sử dụng để đánh giá tác động của sự thay đổi tỉ lệ tăng trưởng dân số (hay lực lượng lao động). Sự gia tăng tỉ lệ tăng trưởng dân số từ n đến n' làm quay đường phát triển vốn theo chiều rộng sang trái từ (n + d)k trở thành (n' + d)k, như thể hiện qua hình 4-6. Các hàm sản xuất và tiết kiệm không thay đổi. Vì bây giờ có nhiều người lao động hơn, nên tiết kiệm trên lao động (sy) trở nên nhỏ hơn và không còn đủ lớn để giữ cho vốn trên lao động không đổi. Do đó, k bắt đầu giảm và nền kinh tế di chuyển đến trạng thái ổn định mới, C. Vì có nhiều người lao động hơn nên vốn trên lao động giảm từ k 0 xuống còn k 4 và tiết kiệm trên lao động giảm từ sy 0 còn sy 4. Sản lượng trên lao động (hay thu nhập trên đầu người) cũng giảm từ y 0 xuống y 4. Như vậy, sự gia tăng tỉ lệ tăng trưởng dân số dẫn đến thu nhập bình quân thấp hơn trong mô hình Solow. Tuy nhiên, lưu ý rằng tỉ lệ tăng trưởng ở trạng thái dừng mới của toàn bộ nền kinh tế đã tăng từ n lên n' ở điểm C. Nói cách khác, với tỉ lệ tăng trưởng dân số cao hơn, Y cần tăng trưởng nhanh hơn để giữ cho y không đổi.^15 Ngược lại, giảm tỉ lệ tăng trưởng dân số làm quay đường (n + d)k sang phải và dẫn đến quá trình phát triển vốn theo chiều sâu, với sự gia tăng của k và mức thu nhập trên lao động ở trạng thái dừng, y. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa tăng trưởng dân số và tăng trưởng kinh tế không hoàn toàn đơn giản như vậy, như mô tả trong Hộp 4-

Hình 4-6 Thay đổi tỉ lệ tăng trưởng dân số trong mô hình Solow Sự gia tăng tỉ lệ tăng trưởng dân số từ n đến n' làm cho đường phát triển vốn theo chiều rộng quay sang trái. Vốn trên lao động ở trạng thái cân bằng giảm từ k 0 xuống k 4.

Hộp 4 - 2 Tăng trưởng dân số và tăng tưởng kinh tế

Mối tương quan nghịch biến giữa tăng trưởng dân số và tăng trưởng kinh tế được trình bày qua mô hình Solow rất lôi cuốn về mặt trực giác. Những đất nước như Guinea – Bissau, Madagascar, Niger, và Yeman có tỉ lệ tăng trưởng dân số nhanh nhất thế giới. Những nước này cũng nằm trong số những nước nghèo nhất thế giới. Nhưng những điều tra cụ thể hơn theo mô hình Solow lại cho thấy những

(^15) Bài tập tương tự có thể được sử dụng để xác định tác động của sự gia tăng tỉ lệ khấu hao, d. Sự gia tăng này dẫn

đến giảm k và y về một mức thu nhập trên đầu người ở trạng thái dừng thấp hơn. Sự khác biệt tinh tế giữa tăng n và tăng d là ở chỗ tăng d không dẫn đến thay đổi tỉ lệ tăng trưởng dài hạn của Y, nó vẫn bằng n.