























Study with the several resources on Docsity
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Prepare for your exams
Study with the several resources on Docsity
Earn points to download
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Community
Ask the community for help and clear up your study doubts
Discover the best universities in your country according to Docsity users
Free resources
Download our free guides on studying techniques, anxiety management strategies, and thesis advice from Docsity tutors
Đề cương ôn tập môm luật tố tụng dân sự
Typology: Study notes
1 / 31
This page cannot be seen from the preview
Don't miss anything!
- Về kiến thức, sau khi kết thúc môn học, người học sẽ:
phần chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự và địa vị pháp lý của các chủ
thể trong tố tụng dân sự và các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự.
phân định thẩm quyền giữa các Tòa án theo cấp và theo lãnh thổ.
phí và nguyên tắc xác định người phải chịu án phí, lệ phí và các chi phí về tố tụng.
chứng minh, đối tượng chứng minh, phương tiện chứng minh và các hoạt động
chứng minh trong tố tụng dân sự.
giải quyết vụ án dân sự
thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
được sự khác nhau giữa trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự với trình tự, thủ
tục giải quyết việc dân sự.
- Về kỹ năng, sau khi kết thúc môn học, người học sẽ:
Phát triển kỹ năng cộng tác, làm việc nhóm.
Phát triển kỹ năng tư duy sáng tạo, khám phá tìm tòi.
Trau dồi, phát triển năng lực đánh giá và tự đánh giá.
Rèn kỹ năng thuyết trình trước công chúng.
Rèn kỹ năng lập kế hoạch, tổ chức, quản lý, điều khiển, theo dõi kiểm tra hoạt
động, làm việc nhóm, lập mục tiêu, phân tích chương trình.
nhóm cho giáo viên phụ trách thảo luận trước buổi thảo luận đầu tiên.
mail cho giáo viên phụ trách thảo luận theo lịch.
bài tập nhóm);
Ví dụ: BTTuan (1)NguyenTac_Nhom01_LopCLC
giãn dòng đơn trên giấy A4, cách đầu trang và cuối trang 2 cm, cách lề trái 3cm, lề
phải 2 cm;
Lớp trưởng tổng hợp và gửi bài các nhóm cho giáo viên thảo luận chậm nhất vào cuối
ngày trước ngày thảo luận tương ứng.
Việc đánh giá và cho điểm sinh viên dựa vào các tiêu chí sau:
nước ngoài).
nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, tích cách hai người không hoà hợp,
hiện nay anh đã thuê nhà ở riêng, anh V và chị H sống ly thân. Nay anh xét thấy tình
cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên năm 2017, anh V đề
nghị Toà án thành phố Thanh Hoá cho anh được ly hôn với chị H.
ngày 02/9/1996 và cháu Lê Xuân Th2, sinh ngày 24/4/2009. Ly hôn anh V có nguyện
vọng nuôi cháu Th2, nhưng cháu Th2 có nguyện vọng ở với mẹ nên anh V đồng ý giao
cháu Th2 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh có nghĩa vụ cấp dưỡng mỗi tháng
2.000.000đ.
Câu hỏi:
Yêu cầu về việc dân sự là về hôn nhân
Gợi ý: Tham khảo Điều 21, Điều 208 BLTTDS năm 2015; Thông tư số 02/2016/TTLT-
Phần 3. Phân tích án
xử của Tòa án đối với yêu cầu của đương sự.
Lưu ý: mỗi nhóm đều phải có quan điểm bảo vệ cho hướng giải quyết của từng
cấp Tòa
xoay quanh vấn đề pháp lý đó.
Phần 1. Nhận định
vụ án dân sự.
thành bị đơn trong vụ án dân sự.
Nhận định sai
CSPL: khoản 4,5 Điều 69
lên.
Nhận định sai
CSPL: khoản 3 Điều 69 TTDS
Cá nhân có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ phải là người từ đủ 18 tuổi trở
lên nếu họ rơi vào người mất năng lực HVDS
quyền và lợi ích hợp pháp cho cùng một đương sự
Nhận định sai.
Vừa đồng thời thì không được
đổi người tiến hành tố tụng khi được đương sự ủy quyền.
ổn định trong căn nhà này. Năm 2017, ông Điệp và bà Lan đã khởi kiện yêu cầu ông
Tuấn và bà Bích phải trả lại căn nhà nêu trên.
Xác định tư cách đương sự.
Bài 2
Năm 1976, ông N cho ông Q ở nhờ trên phần đất của mình có diện tích khoảng
300 m
2 tại phường Hiệp Bình Chánh, TP. Thủ Đức, Hồ Chí Minh. Năm 1994, ông N
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên và ông N để lại thừa kế toàn bộ
diện tích 300 m
2 đất này cho con của ông là ông M. Năm 200 8 , ông Q chết, con của
ông là A tiếp tục ở trên phần đất này. Năm 20 1 8, ông M có nhu cầu sử dụng phần đất
trên nên đã yêu cầu ông A giao trả đất lại cho ông nhưng ông A không đồng ý. Ông M
đã khởi kiện ông A ra Tòa án để đòi lại phần đất tranh chấp trên.
trong thời hạn 01 năm sau, ông A sẽ di dời để trả lại phần đất trên cho ông M. Ông M
đã rút đơn khởi kiện và Thẩm phán B ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Thời
gian sau đó, ông A đã khởi kiện ông M ra Tòa án về việc tranh chấp phần đất nêu trên.
Do các bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án nên Tòa án cấp
sơ thẩm có quyết định đưa vụ án ra xét xử và Thẩm phán giải quyết vụ án này lại là
Thẩm phán B. Sau khi xét xử sơ thẩm, ông A kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm
giải quyết lại toàn bộ vụ án. Tòa án cấp phúc thẩm đã hủy toàn bộ bản án sơ thẩm trên,
chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm vì
cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, do Thẩm phán
B đã 0 2 lần giải quyết vụ án giữa ông M và ông A.
Anh/chị hãy nhận xét hành vi tố tụng trên của Tòa án phúc thẩm?
Phần 3. Phân tích án
của người làm chứng trong vụ án.
Lưu ý: mỗi nhóm đều phải có quan điểm bảo vệ cho hướng giải quyết của từng
cấp Tòa
xoay quanh vấn đề pháp lý đó.
2005 đến 2010, chị T vẫn cùng ông T1, bà Ư sản xuất nông nghiệp trên đất của gia
đình ông T1, bà Ư tại thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang. Năm 2009, ông T
và bà Ư có viết di chúc để lại toàn bộ tài sản của ông T1, bà Ư cho chị T. Năm 2010,
ông T1 chết, khi đó chị T không có mặt tại địa phương, khi biết tin chị quay về để làm
đám ma cho bố nuôi thì anh em nhà bố mẹ nuôi chị đuổi không cho chị T vào thắp
hương và làm thủ tục gì, gồm có các chú thím và các con cháu trong đó có cả ông Đ và
anh Đ2 ngăn cản không cho chị vào đám và đuổi chị về. Thời gian sau khi ông T1 mất
thì ông Đ đe dọa không cho chị T đến ở cùng và chăm sóc bà Ư nhưng bà Ư vẫn sang
nhà chị T để lấy tiền nộp tiền điện, còn ăn uống thì bà Ư tự sinh hoạt đến năm 2015.
Sau khi bà Ư chết, chị T không được canh tác trên đất của gia đình nên đã làm đơn đến
Tòa án để yêu cầu ông Đ trả lại khối tài sản theo di chúc mà ông T1, bà Ư đã để lại
cho chị, bao gồm: Ngôi nhà sàn ba gian hai trái; Đất vườn rừng tại thôn N, thị trấn T,
huyện Q diện tích 5.365m
2
. Ngoài ra, tại buổi tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải
nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt hại: Về ngôi nhà 3 gian: Ván bưng, hiên
buồng; Cây xà dầm, cây dải bằng tre, Cột nhà cũ, công thợ lắp giáp, công trình xuống
cấp, Chuồng trâu và chuồng lợn bị hư hỏng. Tổng giá trị là 180.000.000 đồng (một
trăm tám mươi triệu đồng). Tổng thu thóc lúa 01 năm 76 bao = 28.000.000 đồng x 12
năm (không được sử dụng đất) = 336.000.000 đồng. Trừ chi phí sản xuất yêu cầu bồi
thường 1/3 số tiền = 112.000.000 đồng. Tổng số tiền nguyên đơn yêu cầu bồi thường
là 277.000.000 đồng.
Câu hỏi: Xác định quan hệ tranh chấp và cấp Tòa án có thẩm quyền giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm.
Bài 2
Nguồn gốc đất tranh chấp đo đạc thực tế 6.267,7m
2 là đất của cha ông A là ông
D1 tặng cho anh ông A là ông S1 (chồng bà C). Trước đây, ông S1 chuyển nhượng
cho ông A và bà B 01 công tầm cấy. Ngày 19/02/2004, ông S1 chết, đến ngày
27/3/2004, bà C chuyển nhượng cho vợ chồng ông A bà B diện tích 4,4 công tầm cấy,
với giá 4,4 lượng vàng 24k. Khi chuyển nhượng hai bên có lập giấy ngày 27/3/2004,
thỏa thuận thanh toán vàng làm hai lần, lần thứ nhất trả 2,2 lượng vàng 24k, lần thứ
hai trả 2,2 lượng vàng 24kvà 20 giạ lúa. Ông A bà B đã thanh toán đủ vàng cho bà C.
Đến ngày 20/9/2004, khi thanh toán vàng đợt 2 thì chị D - con bà C viết lại giấy sang
nhượng lập ngày 20/9/2004, có nội dung bà C chuyển nhượng 05 công đất (tính luôn
phầnông S1chuyển nhượng), tổng giá trị hai lần chuyển nhượng là 55 chỉ vàng 24k. Từ
năm 2004, sau khi nhận chuyển nhượng đất vợ chồng ông A và bà B sử dụng đến nay.
Năm 2015, khi có Đoàn cán bộ địa chính đến để đo đạc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì mới biết phần đất trên hiện do ông L1 và bà L2 đứng tên, cấp ngày
17/10/2006. Nay vợ chồng ông A và bà B yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất diện tích nêu trên; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Số AG 989119 ông L1 và bà L2 được cấp liên quan đến phần đất tranh chấp đo đạc
thực tế diện tích 6.267,7m
2 , tại thửa 447 diện tích 4.250m
2 và thửa 543 diện tích
1.098m
2 tờ bản đồ số 10 đất trồng lúa.
Câu hỏi: Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và cấp Tòa án có thẩm
quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.
Phần 3. Phân tích án
B1, tỉnh Bắc Giang và Bản án số 30/2023/HNGĐ-ST ngày 04/5/2023 của Tòa án nhân
dân huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau.
Trình bày luận điểm làm căn cứ cho việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của
các Tòa án. ( Lưu ý: mỗi nhóm đều phải đưa ra các luận điểm để bảo vệ cho hướng xác
định của từng Tòa án). Quan điểm của anh/ chị về việc xác định quan hệ pháp luật
tranh chấp trong trường hợp này.
chấp”.
ngoài ông Tuấn và bà Bích đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu đối với căn nhà nêu trên và gia đình ông bà (gồm có ông bà và hai người
con là anh Trung và chị Thủy) đã sinh sống ổn định trong căn nhà này. Năm 2 023 , ông
Điệp và bà Lan đã khởi kiện yêu cầu ông Tuấn và bà Bích phải trả lại căn nhà nêu trên.
a. Xác định tư cách đương sự.
b. Xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên.
Bài 2
Năm 1980, bà Nga (cư trú ở quận 1, TPHCM) nhận chuyển nhượng 350m
2 đất
của bà Luyện (cư trú tại TP Vũng Tàu) tại số nhà 57B đường Nguyễn Thái Học, thành
phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
Năm 1989 bà Luyện chuyển nhượng cho vợ chồng ông Ký (cư trú tại Quận 2,
TPHCM) diện tích 980m
2 đất tại địa chỉ nêu trên (bao gồm cả phần đất đã chuyển
nhượng cho bà Nga).
Năm 1995, bà Nga khởi kiện vợ chông ông Ký yêu cầu hoàn trả lại phần nhà
đất 350m
2 bà Nga đã nhận chuyển nhượng từ bà Luyện
Năm 1997, bà Nga chuyển nhượng phần đất 350m
2 nêu trên cho ông Hạnh (cư
trú tại Quận 3, TPHCM), giấy chuyển nhượng không có xác nhận của công chứng và
chứng thực của chính quyền địa phương.
Năm 2003, bà Nga xuất cảnh, trước khi bà Nga xuất cảnh thì bà Nga có ủy
quyền cho anh Quốc (là con trai bà Nga) tiếp tục theo vụ kiện đòi ông Ký trả nền nhà
và nếu không đòi được nền nhà thì anh Quốc sẽ hoàn trả lại số tiền chuyển nhượng nhà
đất đã nhận cho ông Hạnh. Từ năm 2008 đến nay, anh Quốc bỏ nhà đi khỏi địa
phương, không rõ địa chỉ liên lạc.
Giả sử năm 2017, ông Hạnh khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông Ký giao trả phần
đất 350m
2 ông Hạnh đã nhận chuyển nhượng từ bà Nga.
Câu hỏi:
a. Giả sử Tòa án thụ lý vụ án, xác định quan hệ tranh chấp và tư cách đương sự?
b. Ông Hạnh có thể khởi kiện ở Tòa án nào?
Phần 3. Phân tích án
việc xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết trong vụ án trên, đồng thời đưa ra các
luận điểm để chứng minh cho quan điểm đó. ( Lưu ý: mỗi nhóm đều phải đưa ra các
luận điểm để chứng minh cho quan điểm của từng chủ thể). Quan điểm của anh/ chị về
việc xác định thẩm quyền của Tòa án trong trường hợp này.
với số tiền vay là 720.651.047đ (vốn là 640.000.000đ, lãi là 80.651.047đ) cho Ngân
hàng, Anh T biết việc ông N, bà X chuyển nhượng các thửa đất và ông N hứa sau khi
chuyển nhượng sẽ trả tiền cho Ngân hàng xong, còn dư sẽ trả lại cho anh.
Trong đơn khởi kiện, anh yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng nông N phải trả
cho anh khoản tiền vay và lãi suất, yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 01 /11/ 2018 đối với thửa 1557 , tờ bản đồ số 3 5 và
yeu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT đối với thửa đất trên. Tòa án đã ra Quyết định số
11 / 2018 /QĐ-BPKCTT ngày 06 / 11 / 2018 phong tỏa quyền sử dụng đất theo giấy
chứng nhận QSD đất cấp cho ông N, bà X ngày 09 / 12 /2 009 (số vào sổ cấp giấy
chứng nhận QSD đất H 03536 của UBND huyện C), đối với thửa 155 7 trên.
Tại phiên tòa sơ thẩm, vợ chồng ông M yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng
chuyển nhượng QSD đất giữa ông Trần Văn N, bà Nguyễn Thị X với ông Nguyễn
Văn M, bà Trần Thanh Th đối với thửa đất 1557 , tờ bản đồ 35 , diện tích 5. 959 m
mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất tọa lạc tại ấp Phú A, xã An Phú T, huyện C, tỉnh
Đồng Tháp, do Phòng Công chứng huyện C chứng thực vào ngày 01 /1 1 / 2018 và yêu
cầu hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 11 / 2018 /QĐ-
BPKCTT ngày 06/11/2018.
Anh T vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 01 /11/ 2018 đối với thửa 1557 , tờ bản đồ số 35 và
yêu cầu tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời số11/2018/QĐ- BPKCTT ngày
06/11/2018 đối với thửa đất trên.
Hội đồng xét xử đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T về việc buộc vợ
chồng nông N phải trả cho anh khoản tiền vay và lãi suất, công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/11/2018 đối với thửa 1557, tờ bản đồ số 35 và Hủy
bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 11/2018/QĐ-BPKCTT
ngày 06/11/2018 về phong tỏa quyền sử dụng đất đối với thửa 1557, tờ bản đồ 35, diện
tích 5.959m2, giấy chứng nhận QSD đất số H03536 cấp ngày 09/12/2009 do ông Trần
Văn N, bà Nguyễn Thị X đứng tên.
Nhận xét quyết định của Tòa án?
Phần 3. Phân tích án
Tỉnh Hà Nam và Bản án số:199/2018/HNGĐ-ST ngày: 28/6/2018 của TAND huyện
Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang.
chịu án phí cấp dưỡng nuôi con.
Lưu ý: mỗi nhóm đều phải có quan điểm bảo vệ cho hướng giải quyết của từng
cấp Tòa
xoay quanh vấn đề pháp lý đó.
với lý do dịch bệnh và chiến tranh tại châu Âu nên thời gian giao hàng sẽ lùi đến ngày
Không đồng ý với thời gian giao hàng như đề xuất của bị đơn, ngày 11/03/
nguyên đơn và bị đơn đã ký Biên bản thanh lý hợp đồng mua bán hàng hóa, theo đó
thỏa thuận tổng số tiền đặt cọc bị đơn phải hoàn trả cho nguyên đơn là 5.100.000.
đồng trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày ký Biên bản thanh lý (tức là chậm nhất đến
ngày 01/4/2022). Tuy nhiên, đến nay bị đơn vẫn chưa thanh toán số tiền trên cho
nguyên đơn.
Từ sau ngày 01/4/2022, nguyên đơn đã rất nhiều lần liên lạc, gửi văn bản yêu
cầu bị đơn hoàn trả số tiền đặt cọc còn lại nhưng bị đơn vẫn không thực hiện nghĩa vụ
thanh toán theo Biên bản thỏa thuận hai bên đã ký kết. Nguyên đơn đề nghị Tòa án
giải quyết buộc bị đơn thanh toán theo Biên bản thanh lý hợp đồng, đồng thời buộc bị
đơn phải thanh toán số tiền 5.100.000.000 đồng theo thỏa thuận giữa các bên khi ký
hợp đồng kinh tế giữa các bên và bị đơn phải chịu trách nhiệm thanh toán số tiền chịu
trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại Điều 357 Bộ luật
dân sự năm 2015, cụ thể là 510.000.000 đồng. Tổng cộng buộc bị đơn phải thanh toán
cho nguyên đơn số tiền là 5.610.000.000 đồng.
Bị đơn do người đại diện hợp pháp trình bày: Sau khi ký kết hợp đồng với
nguyên đơn, bị đơn đã đặt mua hàng từ Công ty TNHH vật tư trang thiết bị y tế
HA(địa chỉ số 14, ngõ 210 Lê Trọng Tấn, phường Khương Mai, quận Thanh Xuân, TP
Hà Nội, MST 0109338735. Đại diện theo pháp luật là ông Trần Quyết Tiết, Giám
đốc). Trong thời gian này, chiến tranh giữa 2 quốc gia Liên bang Nga và Cộng hòa
nhân dân Ukraina xảy ra dẫn đến việc vận chuyển hàng hóa (nhập hàng, giao hàng) từ
các phía bị ảnh hưởng rất nhiều, cụ thể nhà sản xuất tại Phần Lan bị chậm trễ/khó khăn
trong việc nhập nguyên liệu từ các nhà cung cấp của họ dẫn đến tiến độ sản xuất
không đảm bảo đúng thời gian như đã ký kết. Do đó, việc giao hàng từ Phần Lan tới
Công ty HA bị trễ hạn nên kéo theo bị đơn cũng bị trì hoãn việc giao hàng cho nguyên
đơn. Sau đó, khi bị đơn đã nhập hàng được về Việt Nam nhưng lúc này, tình hình dịch
bệnh tại Việt Nam không còn căng thẳng nữa dẫn đến nhu cầu sử dụng test không còn
cao, do đó nguyên đơn đã từ chối nhận hàng.
Trong thời gian này, hoạt động sản xuất kinh doanh của bị đơn không được
suôn sẻ, đang phải đối mặt với rất nhiều khoản nợ bao gồm: chi trả cho lương cho
người lao động, trả tiền hàng cho các nhà cung cấp, hàng hóa công ty đã nhập nhập về
bị tồn tại kho hàng của công ty mà chưa bán được,... bị đơn đề nghị nguyên đơn giảm
khoản tiền chịu trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền.
minh?
Phần 3. Phân tích án
cao tại TPHCM;
về việc Tòa án xác định nội dung ghi âm “cau81.mp3” và “cau82.1.mp3”, “gốc.m4a”
về việc công nhận công nợ qua ghi âm cuộc gọi điện thoại có xác định giọng nói của
các bên tranh chấp được xem là chứng cứ hợp pháp? (Lưu ý: Nêu rõ luận cứ cho các
nhận xét).