Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

đề cương ôn tập giữa kì, Exercises of Literature

this about literature subject.

Typology: Exercises

2022/2023

Uploaded on 06/08/2025

nguyen-phuong-bao-ngoc
nguyen-phuong-bao-ngoc 🇻🇳

1 document

1 / 41

Toggle sidebar

This page cannot be seen from the preview

Don't miss anything!

bg1
ÔN TẬP NGỮ VĂN 9
BÀI 1: MÙA XUÂN NHO NHỎ
-Thanh Hải-
A. KIẾN THỨC
I. Vài nét về tác giả, tác phẩm
1.Tác giả:
- Thanh Hải (1930 1980) tên thật Phạm Ngoãn. Quê huyện Phong Điền, tỉnh Thừa
Thiên Huế.
- Thanh Hải tham gia hoạt động văn nghệ từ cuối năm kháng chiến chống Pháp. Ông là cây bút
có công xây dựng nền văn học giải phóng miền Nam từ những ngày đầu. Ông từng là một người
lính trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với tư cách là một nhà văn. Sau ngày
giải phóng, Thanh Hải vẫn gắn bó với quê hương xứ Huế, sống và sáng tác ở đó cho đến lúc qua
đời.
- Thơ Thanh Hải chân chất và bình dị, đôn hậu và chân thành.
- Các tác phẩm chính: Những đồng chí trung kiên (1962), Huế mùa xuân (hai tập 1970
1975), Dấu võng Trường Sơn (1977)
- Năm 1965, được tặng giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu.
2.Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt: tháng 11- 1980, chỉ ít ngày sau, nhà thơ qua đời.
Bài thơ thể hiện niềm thiết tha cuộc sống, đất nước và nguyện ước của tác giả.
- Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta mới thống nhất lại đang phải đối mặt với nhiều khó
khăn và thử thách gay gắt.
b.Thể thơ: năm chữ
c. Mạch cảm xúc và bố cục:
* Mạch cảm xúc: Bài thơ được bắt đầu bằng những xúc cảm trực tiếp, hồn nhiên, trong trẻo
trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên, mở rộng ra với mùa xuân đất nước, cách
mạng. Từ mạch cảm xúc, mạch thơ chuyển sang suy nghĩ và ước nguyện: nhà thơ muốn nhập vào
bản hoà ca vĩ đại của cuộc đời bằng “một nốt trầm xao xuyến” của riêng mình, một mùa xuân nhỏ
góp vào mùa xuân lớn. Bài thơ khép lại với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất
nước qua điệu dân ca xứ Huế.
* Bố cục: Gồm 4 phần:
- Khổ 1: cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời
- Khổ 2+3: cảm xúc về mùa xuân của đất nước
- Khổ 4+5: suy nghĩ và ước nguyện của tác giả trước mùa xuân đất nước.
- Khổ cuối: lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
d. Nhan đề
- “Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ.
- Hình ảnh “Mùa xuân nho nhỏ” là biểu tượng cho những gì tinh tuý, đẹp đẽ nhất của sự sống và
cuộc đời mỗi con người.
- Thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng.
- Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả
sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường là một mùa xuân nhỏ góp vào mùa xuân lớn
của thiên nhiên, đất nước, của cuộc đời chung và khát vọng sống chân thành, cao đẹp của nhà
thơ. Đó cũng chính là chủ đề của bài thơ mà nhà thơ muốn gửi gắm.
e. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
* Nội dung: bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện
ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ”
của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
CHÚC CÁC CON CÁN ĐÍCH THÀNH CÔNG
pf3
pf4
pf5
pf8
pf9
pfa
pfd
pfe
pff
pf12
pf13
pf14
pf15
pf16
pf17
pf18
pf19
pf1a
pf1b
pf1c
pf1d
pf1e
pf1f
pf20
pf21
pf22
pf23
pf24
pf25
pf26
pf27
pf28
pf29

Partial preview of the text

Download đề cương ôn tập giữa kì and more Exercises Literature in PDF only on Docsity!

BÀI 1: MÙA XUÂN NHO NHỎ

-Thanh Hải- A. KIẾN THỨC I. Vài nét về tác giả, tác phẩm 1.Tác giả:

- Thanh Hải (1930 – 1980) tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

  • Thanh Hải tham gia hoạt động văn nghệ từ cuối năm kháng chiến chống Pháp. Ông là cây bút có công xây dựng nền văn học giải phóng miền Nam từ những ngày đầu. Ông từng là một người lính trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với tư cách là một nhà văn. Sau ngày giải phóng, Thanh Hải vẫn gắn bó với quê hương xứ Huế, sống và sáng tác ở đó cho đến lúc qua đời.
  • Thơ Thanh Hải chân chất và bình dị, đôn hậu và chân thành.
  • Các tác phẩm chính: “ Những đồng chí trung kiên ” (1962), Huế mùa xuân (hai tập 1970 và 1975), Dấu võng Trường Sơn (1977)
  • Năm 1965, được tặng giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu. 2.Tác phẩm a. Hoàn cảnh sáng tác
  • Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt: tháng 11- 1980, chỉ ít ngày sau, nhà thơ qua đời. Bài thơ thể hiện niềm thiết tha cuộc sống, đất nước và nguyện ước của tác giả.
  • Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta mới thống nhất lại đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách gay gắt. b.Thể thơ : năm chữ c. Mạch cảm xúc và bố cục:
  • Mạch cảm xúc : Bài thơ được bắt đầu bằng những xúc cảm trực tiếp, hồn nhiên, trong trẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên, mở rộng ra với mùa xuân đất nước, cách mạng. Từ mạch cảm xúc, mạch thơ chuyển sang suy nghĩ và ước nguyện: nhà thơ muốn nhập vào bản hoà ca vĩ đại của cuộc đời bằng “một nốt trầm xao xuyến” của riêng mình, một mùa xuân nhỏ góp vào mùa xuân lớn. Bài thơ khép lại với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
  • Bố cục : Gồm 4 phần:
  • Khổ 1: cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời
  • Khổ 2+3: cảm xúc về mùa xuân của đất nước
  • Khổ 4+5: suy nghĩ và ước nguyện của tác giả trước mùa xuân đất nước.
  • Khổ cuối: lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế. d. Nhan đề
  • Mùa xuân nho nhỏ ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ.
  • Hình ảnh “ Mùa xuân nho nhỏ ” là biểu tượng cho những gì tinh tuý, đẹp đẽ nhất của sự sống và cuộc đời mỗi con người.
  • Thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng.
  • Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường là một mùa xuân nhỏ góp vào mùa xuân lớn của thiên nhiên, đất nước, của cuộc đời chung và khát vọng sống chân thành, cao đẹp của nhà thơ. Đó cũng chính là chủ đề của bài thơ mà nhà thơ muốn gửi gắm. e. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
  • Nội dung : bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.

*** Nghệ thuật đặc sắc:**

  • Thể thơ 5 chữ gần với điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết , điệu thơ như điệu của tâm hồn, cách gieo vần liền tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc.
  • Hình ảnh tự nhiên, giản dị , những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, đặc biệt một số hình ảnh cành hoa, con chim, mùa xuân được lặp đi lặp lại và nâng cao, gây ấn tượng đậm đà.
  • Cấu tứ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: từ mùa xuân đất trời -> đất nước -> con người.
  • Giọng điệu bài thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: ở đoạn đầu vui, say sưa với vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, rồi phấn chấn, hối hả trước khí thế lao động của đất nước. Và cuối cùng là trầm lắng, hơi trang nghiêm mà thiết tha bộc bạch, tâm niệm. II. Ph©n tÝch TÁC PHẨM 1. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên (6 câu đầu): _ Bức tranh mùa xuân thiên nhiên trong 6 câu thơ đầu được vẽ bằng vài nét phác hoạ đơn sơ nhưng rất đặc sắc._*
  • Với những hình ảnh thân quen, bình dị, nhà thơ đã gợi lên bức tranh xuân tươi tắn, thơ mộng, mang đậm phong vị xứ Huế: dòng sông xanh, bông hoa tím, tiếng chim chiền chiện hót vang trời.
  • Không gian cao rộng, bao la của bầu trời, rộng dài của dòng sông
  • Màu sắc hài hoà, tươi tắn, đầy xuân sắc với bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh +Âm thanh rộn rã, tươi vui của tiếng chim chiền chiện hót vang trời, tiếng chim trong ánh xuân lan toả khắp bầu trời như đọng thành “từng giọt long lanh rơi”.
  • Phép đảo ngữ: “ Mọc giữa dòng sông xanh/ một bông hoa tím b i ếc ” khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên của mùa xuân.
    • Tiếng chim chiền chiện tạo nên một nét đẹp của mùa xuân: “ Ơi con chim chiền chiện. Hót chi mà vang trời ”=> nhạc điệu của câu thơ như giai điệu của mùa xuân tươi vui và rạo rực. Tiếng chim ngân vang, xáo động cả bầu trời, xao xuyến tâm hồn thi nhân.
  • Các từ “ ơi, chi ” mang chất giọng ngọt ngào đáng yêu của người xứ Huế vừa thân thương, vừa gần gũi.
  • Câu hỏi tu từ “hót chi” thể hiện tâm trạng tươi vui, ngỡ ngàng, thích thú của tác giả trước giai điệu của mùa xuân. * Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân đất trời: - Cái nhìn trìu mến với cảnh vật được bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên “ ơi, hót chi… mà… ”.
  • Hai câu thơ Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng.. có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau.
  • Trước hết, “giọt long lanh” là những giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong sáng, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như những hạt ngọc.
  • Giọt long lanh cũng có thể được hiểu theo nghĩa ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành từng giọt (hình và khối, cảm nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể cảm nhận bằng xúc giác “Tôi đưa tay tôi hứng”. Dù hiểu theo cách nào thì hai câu thơ vẫn thể hiện cảm xúc say sưa, ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân, thể hiện mong muốn hoá vào thiên nhiên đất trời trong tâm tưởng giữa mùa đông giá lạnh khiến ta vô cùng khâm phục. 2. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước (10 câu tiếp)

=> Tác giả bộc lộ niềm tự hào về một đất nước Việt Nam anh hùng và giàu đẹp. Đất nước mãi trường tồn và toả sáng như những vì sao trong hành trình đi đến tương lai rực rỡ. Đó là chí quyết tâm, niềm tin sắt đá, niềm tự hào lạc quan.

**3. Ước nguyện của nhà thơ (8 câu tiếp)

  • Khổ 4** Ta làm con chim hót Ta làm một nhành hoa Ta nhập vào hoà ca Một nốt trầm xao xuyến.
  • Biện pháp liệt kê: con chim hót, một cành hoa, một nốt trầm là những hình ảnh giàu ý nghĩa. Nhà thơ nguyện làm " con chim hót " giữa muôn ngàn tiếng chim cống hiến tiếng hót vui, làm " một cành hoa " giữa vườn hoa xuân rực rỡ vô tư cống hiến hương sắc cho đời, làm "một nốt trầm" giữa bản hoà tấu muôn điệu, làm "một mùa xuân nho nhỏ" góp vào mùa xuân lớn của đất nước, của cuộc đời chung.
  • Ở đầu bài thơ, tác giả đã khắc họa hình ảnh mùa xuân bằng các chi tiết bông hoa, tiếng chim hót. Cấu tứ lặp lại như vậy tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Hình ảnh chọn lọc ấy mang một ý nghĩa mới ->Đó là khát vọng sống hòa nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp dù bé nhỏ của mình cho cuộc đời chung- một quan niệm sống đẹp, đầy trách nhiệm và nhân văn.
  • Điệp ngữ " ta " như một lời khẳng định. Nó không chỉ là lời tâm niệm thiết tha, chân thành của nhà thơ mà nó còn đề cập đến một vấn đề lớn là khát vọng chung của nhiều người. *** Khổ 5 :** Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc -Tính từ “ nho nhỏ ”, “ lặng lẽ ” là cách nói khiêm tốn, chân thành mà giản dị, là cách sống cao đẹp. Tác giả muốn mỗi người là một mùa xuân nhỏ hoà vào cuộc sống, là ước nguyện sống có ích, được cống hiến cho đời như Tố Hữu đã viết trong “Một khúc ca xuân”. “Nếu là con chim, chiếc lá Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không có trả Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”
  • Mùa xuân nho nhỏ ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, làm “mùa xuân” nghĩa là sống đẹp, giữ mãi sức xuân, bầu nhiệt huyết để cống hiến, cống hiến khi ở tuổi thanh xuân- tuổi hai mươi, và cả khi không còn ở tuổi thanh xuân – khi tóc bạc, bất chấp thời gian, tuổi tác. Nó đã khắc sâu ý tưởng: “ Mỗi cuộc đời đã hoá núi sông ta ” (Nguyễn Khoa Điềm) -> một khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, một ý thức khiêm nhường. không phải là khát vọng của mỗi con người mà là khát vọng của mọi lớp người, mọi lứa tuổi.
  • Điệp ngữ “ dù là ”, hình ảnh hoán dụ “ tuổi hai mươi” “ khi tóc bạc” như một lời tự khẳng định, tự nhủ với lương tâm -> sự kiên trì, thử thách với thời gian, tuổi già, bệnh tật để mong làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân lớn của quê hương, đất nước. -Từ chỗ xưng “ tôi ” khi bộc lộ cảm xúc trữ tình của mình trước mùa xuân giờ đây tác giả chuyển sang xưng “ta” và ẩn đi trong hình ảnh thơ và chỉ còn là “ một mùa xuân nho nhỏ ” cũng là phù hợp để nói lên ước nguyện của nhiều người. Hơn nữa, từ “ta” mang sắc thái trang trọng, thiêng liêng của một lời nguyện ước. => Những câu thơ không chỉ là lời tự dặn mình, lời tâm niệm chân thành mà còn như một sự tổng kết, đánh giá của tác giả về cuộc đời mình- một cuộc đời đã hiến dâng trọn vẹn cho đất nước. Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ trở về với cát bụi nhưng không gợi chút băn khoăn

về bệnh tật, những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ “lặng lẽ cháy bỏng một khát khao được dâng hiến”. Đây là những câu thơ giản dị mà đậm đà triết lí gợi bao liên tưởng sâu xa, đem đến những bài học nhân sinh sâu sắc.

4. Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế (Khổ cuối) “Mùa xuân - ta xin hát Khúc Nam ai, Nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình Nhịp phác tiền đất Huế".

  • Bài thơ khép lại trong âm điệu khúc Nam ai, Nam bình xứ Huế. Đoạn thơ kết thúc như một khúc hát ca ngợi mùa xuân, để lại dư vị sâu lắng. Nhà thơ muốn hát lên điệu Nam ai, Nam bình, điệu dân ca tha thiết xứ Huế để đón mừng mùa xuân. Câu ca nghe như một lời từ biệt để hoà vào vĩnh viễn. Nhưng đây không phải là lời ca buồn thủa trước “ nhịp phách tiền đất Huế ” nghe giòn giã, vang xa. - “ Nước non ngàn dặm mình. Nước non ngàn dặm tình ” còn ngân nga mãi mãi. Phải yêu đời lắm, phải lạc quan lắm mới có thể hát lên trong hoàn cảnh nhà thơ lúc đó (đang ốm nặng và sắp qua đời). Điều đó làm ta càng yêu quý tiếng hát và tấm lòng nhà thơ. Như vậy, xuyên suốt bài thơ không chỉ là hình tượng mùa xuân. Từ tiếng chim chiền chiện tượng trưng cho khúc hát của đất trời đến làm một nốt nhạc trầm nhập vào bản hoà ca đất nước, và đến đây là khúc hát tạo ấn tượng một bài ca không dứt. Một bài ca yêu cuộc sống. Bài thơ được nhạc sỹ Trần Hoàn phổ nhạc thành bài hát và trở thành một khúc ca xuân quen thuộc, xúc động còn mãi với đời. B. BÀI TẬP Bài số 1 : Cho câu thơ: Ta làm con chim hót a. Chép tiếp những câu thơ còn lại để hoàn thành khổ thơ. b. Giải thích ý nghĩa cụm từ: “Mùa xuân nho nhỏ” trong đoạn thơ. c. Phân tích ước nguyện của nhà thơ được thể hiện trong đoạn thơ từ: “Ta làm con chim hót… dù là khi tóc bạc” bằng một đoạn văn. Gợi ý: Mùa xuân nho nhỏ là sáng tác độc đáo trong ý tưởng thơ và ngôn ngữ thơ của nhà thơ Thanh hải. Đây là hình ảnh ẩn dụ chỉ mùa xuân riêng trong lòng nhà thơ trước mùa xuân của dân tộc. Nó hoà cùng vào mùa xuân của đất nước. Từ láy “nho nhỏ” vừa chỉ ra cái mùa xuân riêng của nhà thơ vừa gợi lên cái vẻ xinh xinh, đáng yêu của nó. Nhà thơ tự nguyện làm một mùa xuân, ông muốn sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng lại rất khiêm nhường, coi đấy chỉ là một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn của đất nước, của cuộc đời chung. b. Phân tích đoạn thơ:
  • Câu đầu tiên của đoạn văn phải nêu được ý chính của hai khổ thơ: Những suy ngẫm và tâm niệm của mình trước mùa xuân của đất nước.
  • Điều tâm niệm của nhà thơ: là khát vọng được hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp – dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước.
  • Hình ảnh thơ tự nhiên giàu sức gợi tả, dùng những hình ảnh của thiên nhiên để nói lên ước nguyện của mình: làm một tiếng chim hót trong rộn rã tiếng chim ca, một cành hoa để góp vào vườn hoa muôn hương sắc, một nốt trầm âm thầm, lặng lẽ để nhập vào khúc ca tiếng hát của nhân dân…
  • Những hình ảnh ấy được nhắc tới ở khổ thơ đầu, lặp lại ở khổ thơ này trong giọng thơ nhè nhẹ, êm ái, ngọt ngào… mang ý nghĩa mới: niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên.
  • Đánh giá: Điều tâm niệm ấy thật cao đẹp, chân thành, là sự phát triển tự nhiên trong mạch cảm xúc của bài thơ.

và ấm không giá lạnh như trong tiết đông. Nhưng cũng có chỗ chưa thật hợp lý, vì mưa xuân thường là mưa bụi, mưa nhỏ, khó có thể tạo thành từng giọt long lanh rơi. Cách hiểu “giọt” là giọt âm thanh tiếng chim chiền chiện xuất phát từ chỗ cho rằng giữa câu thơ này với hai dòng thơ trước nó là liền mạch. Hiểu như vậy thì câu thơ, không dừng lại ở tả thực mà là biểu hiện một sự chuyển đổi cảm giác: Tiếng hót lánh lót, vang vọng, trong trẻo của con chim chiền chiện được cảm nhận như một dòng âm thanh tuôn chảy và trong ánh sáng tươi rạng rỡ của trời xuân, giọt âm thanh cũng long lanh và nhà thơ nâng niu, trân trọng đưa tay đón lấy từng giọt. (Tuy nhiên cách hiểu sau không quen thuộc với bút pháp vốn bình dị của thơ Thanh Hải). Bài số 4: Giải nghĩa từ “lộc” trong đoạn thơ: “Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy quanh lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ”

  • Lộc: chồi non, lá non. Nhưng “lộc” còn có nghĩa là mùa xuân, là sức sống, là thành quả hạnh phúc. Viết đoạn văn phân tích đoạn thơ trên. Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, nhà thơ chuyền sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Đất nước và con người cũng mang vẻ đẹp của sức sống vô tận, rộn ràng bước vào một mùa xuân mới. Lộc xuân theo người cầm súng, lộc xuân trải dài nương mạ. Hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng” biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến đấu và lao động dựng xây đất nước. Âm hưởng thơ hối hả, khẩn trương với nhiều điệp từ, điệp ngữ láy lại ở đầu câu. Câu thơ vừa là thực, nhiều nghĩa. “Lộc” lá chồi non, lá non, nhưng lộc còn có nghĩa là mùa xuân, là sức sống, là thành quả hạnh phúc. Người cầm súng giắt lộc để nguỵ trang ra trận như mang theo sức xuân vào trận đánh, người ra đồng như gieo mùa xuân trên từng nương mạ. Những con người lao động, chiến đấu ấy đã mang cả mùa xuân ra trận địa của mình để gặt hái mùa xuân về cho đất nước. Bài số 5: Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo cách lập luận quy nạp với chủ đề: Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Gợi ý:
  • Viết đoạn văn quy nạp tức là câu chủ đề phải đưa xuống cuối đoạn văn (chú ý có từ liên kết: Quả thật, có thể nói…).
  • Để làm rõ câu chủ đề trên, cần phân tích khổ thơ đầu tiên của bài thơ: Mùa xuân của thiên nhiên, đất trời.
  • Vài nét phác hoạ của tác giả về mùa xuân: dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện hót vang trời.
  • Không gian cao rộng (với dòng sông, với mặt đất, bầu trời bao la), cả sắc màu tươi thắm của mùa xuân (sông xanh, hoa tím biếc – màu tím đặc trưng của xứ Huế), cả âm thanh vang vọng, tươi vui của chim chiền chiện hót vang trời.
  • Cảm xúc say sưa, ngây ngất của nhà thơ: được diễn tả ở chi tiết rất tạo hình: “Từng giọt long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi hứng”. Gợi ý: Bức tranh thiên nhiên mở đầu bằng không gian tháng đãng, yên ả, thơ mộng. Đó là không gian của một dòng sông xanh. Dòng sông ấy gợi nhắc đến sông Hương thơ mộng của Xứ Huế và không gian của mùa xuân không ngừng được mở rộng với tiếng hót vang trời của con chim chiền chiện. Chiền chiện vốn là loài chim báo tin xuân, hình ảnh của nó xuất hiện trong khổ thơ khiến người đọc có cảm giác không gian như được trải đầy một sắc xuân. Thanh Hải lựa chọn màu sắc trẻ trung, tươi tắn và căng tràn sức sống cho bức tranh mùa xuân của mình. Đó là màu xanh của dòng sông hoà lẫn màu xanh của bầu trời. Là một màu tím biếc đến nao lòng của xứ Huế. Nhưng bức tranh này không chỉ có hình ảnh, màu sắc mà còn có cả âm thanh. Chỉ có điều ở đây tiếng chim hót như trở nên cụ thể, hữu hình, thành hình khối long lanh náo nức để có thể đưa

tay ra mà hứng, mà nâng niu. Quả thật, Thanh Hải với lòng yêu thiên nhiên say đắm đã thể hiện mọi bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Bài số 6: Em hiểu tên bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” gắn bó như thế nào với quan niệm sống của tác giả? Gợi ý: Tiêu đề bài thơ gắn bó chặt chẽ với quan niệm sống của tác giả. Bài thơ có tên “mùa xuân nho nhỏ”, đó là mùa xuân khiêm tốn, nhỏ bé, hữu hạn của mỗi con người trước mùa xuân lớn lao hùng vĩ của đất nước và thiên nhiên. Tác giả quan niệm rằng mỗi con người dù trẻ hay già, suốt cả cuộc đời đều phải cống hiến phần nhỏ bé của mình cho xã hội, mà đó là phần cống hiến tự nguyện khiêm nhường. Thanh Hải ước ao mình là “một mùa xuân nho nhỏ”, một tiếng chim, một cành hoa, một nốt nhạc trầm xao xuyến đẻ nhập vào bản hoà ca chung của dân tộc. Đó là ý thức tự nguyện cống hiến phần nhỏ bé của mình cho xã hội, cho đất nước.

e. Chủ đề : Thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và của mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác. II. Phân tích tác phẩm

1. Niềm xúc động của tác giả khi đứng trước lăng Bác ( khổ 1 ): Con ở miền nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa xa vẫn thẳng hàng…” *** Câu thơ:** “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” chỉ ngắn gọn như một lời thông báo nhưng lại gợi một tâm trạng đầy xúc động của một con người từ chiến trường miền Nam, sau bao nhiêu năm mong mỏi, bây giờ mới được ra viếng Bác.

  • Tác giả dùng đại từ xưng hô “ con ”. Gọi Bác để thể hiện mối quan hệ thắm thiết, gần gũi, ấm áp, thân thương. Đó là cách xưng hô thường thấy với Bác “ Người không con mà có triệu con ”. Nhưng với Viễn Phương, cách xưng hôn này vẫn mang sắc thái riêng đầy xúc động bởi ông là con người từ chiến trường miền Nam xa xôi về thăm Bác.
  • Nhà thơ dùng cách nói giảm, nói tránh qua động từ “ thăm ” thay cho từ “ viếng ” để giảm nhẹ nỗi đau thương, mất mát, giống như người con về thăm cha, thăm chỗ Bác nghỉ, thăm nơi Bác nằm. Nỗi đau như cố giấu trong lòng nhưng giọng thơ có gì đó bùi ngùi, đau xót. Cùng với cách dùng từ Người , Viễn Phương đã nêu lên Bác còn sống mãi trong tâm tưởng mọi người.
  • Cụm từ “ con ở miền Nam ” là lời giới thiệu của tác giả về một miền đất xa xôi mà Bác vẫn luôn dành cho nhân dân nơi ấy một tình cảm hết sức sâu nặng. Bác luôn thương đồng bào miền Nam “ đi trước, về sau ”. Và Người thường nói “ miền Nam luôn trong trái tim tôi ”. Bác luôn mong một ngày đất nước thống nhất để vào thăm đồng bào, chiến sĩ miền Nam. Tình cảm ấy được nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”. Nhân dân miền Nam cũng vô cùng thương nhớ Bác. Bởi vậy, giọng thơ của Viễn Phương chứa đựng niềm xúc động nghẹn ngào. *** Hình ảnh nổi bật trong đoạn thơ này là hình ảnh hàng tre: “…** Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa xa đứng thẳng hàn g…”
  • Hình ảnh hàng tre bát ngát trong sương sớm gợi lên trong lòng nhà thơ niềm xúc động lớn lao, khiến ông phải thốt lên: “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Có lẽ vì nóng lòng, hồi hộp nên nhà thơ đã đến lăng Bác từ rất sớm. Đến đây, ông lại bắt gặp một hình ảnh rất đỗi thân thương của quê hương Việt Nam. Lăng Bác như ở trong tre, giữa tre. Hàng tre bát ngát chạy dài quanh năm như bao bọc, che chở cho lăng Bác.
  • Hình ảnh hàng tre vừa mang tính chất tượng trưng, giàu ý nghĩa liên tưởng. Hàng tre là hình ảnh hết sức thân thuộc của làng quê, đất nước Việt Nam, đã thành biểu tượng của dân tộc “ xanh xanh Việt Nam ”. Cây tre từ lâu đã trở thành biểu tượng so sánh của dân tộc, biểu tượng của tâm hồn thanh cao, dù trải qua bao khó khăn, gian khổ vẫn vững vàng “ bão táp mưa xa vẫn thẳng hàng ”. Với những ý nghĩa như thế, ta thấy lăng Bác vốn trang nghiêm nay trở nên gần gũi, yên bình bên hàng tre xanh và Bác như đang yên nghỉ giữa vòng tay yêu thương của toàn dân tộc. 2. Niềm xúc động của tác giả được hòa mình vào dòng người vào viếng lăng Bác ( khổ 2 ):
  • Khổ thơ thứ hai được tạo nên từ cặp câu thơ với những hình ảnh thực và ẩn dụ sóng đôi: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

  • Hình ảnh mặt trời ở câu thơ thứ nhất là hình ảnh thực – mặt trời của thiên nhiên, rực rỡ, vĩnh hằng, ngày ngày đi qua trên lăng.
  • Còn hình ảnh mặt trời ở câu thứ hai là hình ảnh ẩn dụ. Mặt trời đó chỉ Bác Hồ. Nếu mặt trời thiên nhiên đem lại ánh sáng ban ngày cho sự sống. Thì mặt trời Bác cũng là ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam để đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân ta. Hơn nữa “ mặt trời trong lăng rất đỏ ” còn cho người đọc cảm nhận được trái tim đầy nhiệt huyết vì Tổ quốc, nhân dân  Trái tim vô hạn của Bác. Nhà thơ tạo nên những cảm xúc sâu xa trong lòng người đọc. Qua đó, nhà thơ ca ngợi sự vĩ đại và công ơn trời biển của Bác với dân tộc Việt Nam. Câu thơ thể hiện sự tôn kính, niềm biết ơn của tác giả với nhân dân nói riêng và đất nước nói chung.
  • Tác giả còn có hình ảnh sáng tạo khác để ca ngợi Bác, thể hiện tình cảm với Bác: Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân ”.
  • Hình ảnh “ dòng người đi trong thương nhớ ” là hình ảnh thực, chúng ta thường thấy. Điệp ngữ “ ngày ngày ” vừa nói cái thường lệ vừa diễn tả tình cảm tiếc nuối của những con người đến viếng Bác. Nhịp thơ chậm, giọng thơ trầm như bước chân dòng người vào lăng viếng Bác. Ở đây, tác giả dùng từ ngữ “ dòng người ” chứ không phải “ đoàn người ”, “ hàng người ” gợi một hình ảnh kéo dài vô tận, giống như lòng kính yêu, tiếc thương vô hạn đối với Bác. “ Đi trong thương nhớ ” là một cách nói nghệ thuật, gợi một không gian nghiêm trang, không gian của nỗi nhớ thương bởi mỗi người từ khắp mọi miền đất nước về đây, kết nên tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân. Đây là hình ảnh tả thực, so sánh những dòng người xếp thành hàng dài vào lăng viếng Bác trông như tràng hoa vô tận. Đây còn là hình ảnh ẩn dụ rất đẹp, rất sáng tạo của nhà thơ. Cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng con đường bạn chọn. Những bông hoa tươi thắm đó đã dâng lên những gì tốt đẹp nhất.
  • Dâng bảy mươi chín mùa xuân ” – hình ảnh vừa mang ý nghĩa hoán dụ cho số tuổi của Bác nhưng lại cũng mang nghĩa ẩn dụ, tượng trưng: con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm nên những mùa xuân cho đất nước, con người. 3. Niềm tiếc thương vô hạn của nhà thơ khi đứng trước thì hài Bác ( khổ 3 ):
  • Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào khi tác giả thấy Bác. Tình cảm kính yêu, nhớ thương Bác, ấp ủ bấy lâu nên khi thấy bóng hình Bác, Viễn Phương trào dâng, thổn thức: Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa vầng trăng sáng dịu hiền ”.
  • Khung cảnh và không khí trong lăng thanh tĩnh và ánh sáng thanh khiết, dịu nhẹ để diễn tả không gian, thời gian như ngưng kết. Nhà thơ như thấy Bác đang thanh thản trong “ giấc ngủ bình yên ”. Đây là cách nói giảm, nói tránh để bớt đau xót, tiếc thương. Đồng thời, ta như cảm thấy Bác chưa hề đi xa mà chỉ vừa chợp mắt sau một thời gian làm việc mệt mỏi. Bởi: Suốt cuộc đời Bác có ngủ ngon đâu Nay Bác ngủ chúng con canh giấc ngủ ”. Cả cuộc đời là những đêm không ngủ vì nước, vì dân. Giờ đây, người đang yên giấc giữa một vầng trăng sáng dịu hiền:
  • Ánh sáng dịu nhẹ trong lăng gợi lên một liên tưởng thật thú vị: “ vầng trăng sáng dịu hiền ”. Hình ảnh đó không chỉ gợi ánh sáng và không gian trầm lắng mà còn gợi liên tưởng tâm hồn cao đẹp, sáng trong của Bác. Hình ảnh này cho thấy nhà thơ am hiểu Bác qua sự liên tưởng kì lạ đó. Những vần thơ của Bác tràn đầy ánh trăng “ Cảnh khuya , “ Rằm tháng giêng ”, “ Ngắm trăng ”, “ Trung thu ”. Trăng đã trở thành người bạn tri kỉ, tri ân của Bác. Giờ đây, trong cái vĩnh hằng, trăng lại trở về bên Người.

b. Cách xưng hô của tác giả với Bác Hồ có gì đáng chú ý? c. Việc lặp lại một hình ảnh (chi tiết) ở đầu và cuối tác phẩm tương tự như trên còn thấy trong nhiều bài thơ khác. Kể tên một bài thơ đã học (ghi rõ tên tác giả) có đặc điểm đó. d. Viết đoạn văn ngắn (10-15 dòng) thể hiện cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác. Gợi ý: a. Những hình ảnh ẩn dụ trong đoạn thơ:

  • “Hàng tre xanh xanh”: chính là hình ảnh tượng trưng cho làng quê Việt Nam, cho con người Việt Nam bền bỉ, cần cù, chịu thương chịu khó.
  • “Cây tre trung hiếu”: là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng bào miền Nam, của mỗi chúng ta với Bác. b. Nhà thơ xưng “con” ngay ở dòng thơ đầu tiên mang lại một cảm xúc vô cùng sâu lắng cho người đọc. Trong những từ ngữ xưng hô, không có một chữ nào lại xúc động và sâu nặng bằng tiếng “con”. Cách xưng hô này thật gần gũi, thật thân thiết, ấm áp tình thân thương mà vẫn rất mực thành kính, thiêng liêng. Đồng thời, cách xưng hô cũng diễn tả tâm trạng xúc động của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách. c. Học sinh nêu đúng: Tên bài thơ có kết cấu tương tự và tên tác giả (Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận, Ông đồ – Vũ Đình Liên, Khi con tu hú – Tố Hữu…) d. Có thể triển khai các ý như sau:
  • “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Câu thơ mở đầu như một lời thông báo ngắn gọn, lời lẽ giản dị nhưng chứa đựng trong nó biết bao điều sâu xa. Đó như hành trình của một đứa con ra thăm cha.
  • Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”:
  • “Viếng”: là đến chia buồn với thân nhân người đã khuất.
  • “Thăm”: là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống.
  • Đó là cách nói giảm, nói tránh nhằm giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát, khẳng định Bác vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc. Đồng thời gợi sự thân mật, gần gũi: Con về thăm cha – thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khao mong nhớ bấy lâu.
  • Những “hàng tre bát ngát” bao quanh lăng như vòng tay của quê hương, của Tổ quốc đang bao bọc lấy vị lãnh tụ vĩ đại, như hình dáng những người con của dân tộc đang đứng canh giấc ngủ của Người. Nghệ thuật ẩn dụ ấy vừa hay vừa tạo sự kết nối chặt chẽ vì cây tre, Bác và đất nước có mối liên hệ đặc biệt.
  • Cái hay của khổ thơ không chỉ ở từ ngữ bình dị mà còn ở hình ảnh cây tre vô cùng thân thuộc. Chắc nhà thơ phải đến xếp hàng từ rất sớm mới thấy được hàng tre trong sương như vậy. Những “hàng tre xanh xanh Việt Nam” chính là hình ảnh tượng trưng cho làng quê, cho con người Việt Nam bền bỉ, cần cù, chịu thương chịu khó. Tác giả đã bật lên một tiếng “Ôi!” vừa đầy thương cảm vừa mang vẻ tự hào Bài 2: Cho đoạn thơ “ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”

a. Các từ ngữ “bát ngát”, “xanh xanh” trong khổ thơ trên thuộc từ loại nào? Các từ loại đó giúp em hình dung như thế nào về khung cảnh trước lăng Bác? b. Phần in đậm trong câu: Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam” là câu cảm thán hay thành phần biệt lập cảm thán? c. Chỉ ra một thành ngữ có trong khổ thơ trên và giải thích ý nghĩa. d. Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ, đồng bào cả nước đau đáu hướng về miền Nam ruột thịt. Địa danh miền Nam còn xuất hiện trong một bài thơ khác em đã học trong chương trình Ngữ văn 9. Hãy chép lại câu thơ có chứa “miền Nam” và ghi rõ tên tác phẩm, tác giả. e. Trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ diễn tả cảm xúc chân thành và lòng kính yêu Bác vô hạn khi tác giả hòa cùng dòng người vào lăng viếng Bác bằng đoạn văn theo pháp lập luận qui nạp (khoảng 12 câu). Trong đoạn văn có sử dụng một câu ghép và một thành phần biệt lập tình thái. (gạch chân và chú thích). Gợi ý: a.

  • Chỉ đúng từ loại: Tính từ
  • Tác dụng: Khung cảnh trước lăng: không gian mênh mông, rộng lớn với hai rặng tre ngà bên lăng Bác xanh tốt trong làn sương, không khí trang nghiêm, vừa gần gũi thân quen, vừa trang nghiêm…. b. - Câu cảm thán: Ôi c. Thành ngữ: bão táp mưa sa.
  • Ý nghĩa: ý nói những khó khăn, thử thách lớn. (Táp: vỗ mạnh, đập mạnh vào; sa: rơi thẳng xuống) d. - Chỉ đúng câu thơ: Xe vẫn chạy….0,25đ
  • Nêu đúng tên tác phẩm 0,25đ e. - Học sinh có nhiều cách diễn đạt để hoàn thành đoạn văn nhưng cần triển khai lí lẽ và dẫn chứng hợp lí:
  • Khai thác các tín hiệu nghệ thuật để cảm nhận về nội dung. Dòng cảm xúc chân thành của tác giả trước khi vào lăng viếng Bác.
  • Hình ảnh thực và ẩn dụ sóng đôi “mặt trời” – vừa khẳng định sức sống trường tồn, sự vĩ đại của Bác, Bác soi đường chỉ lối cho cách mạng dân tộc….vừa thể hiện lòng thành kính, ngưỡng mộ, tự hào, biết ơn đối với Bác.
  • Hình ảnh ẩn dụ đẹp và sáng tạo + ẩn dụ gợi liên tưởng “dòng người – trăng hoa”, “bảy mươi chín mùa xuân” -> tấm long thương nhớ thành kính của nhân dân dành cho Bác.
  • Nhịp thơ, giọng thơ chậm, sâu lắng…-> Những vần thơ được viết trong sự thăng hoa của cảm xúc, nỗi xúc động lớn lao của trái tim… Bài 3: Cho khổ thơ sau: “ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ, Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.( Trích Viếng lăng Bác – Viễn Phương) a. Nêu ngắn gọn hoàn cảnh sáng tác bài thơ. b. Từ “ mặt trời ” ở câu thơ thứ hai được sử dụng theo phép tu từ từ vựng nào? Phép tu từ này có tác dụng như thế nào trong việc bộc lộ cảm xúc của tác giả? Có thể coi đây là hiện tượng một nghĩa gốc của từ phát triển thành nhiều nghĩa được không?Vì sao? c. Trong chương trình Ngữ văn 9 cũng có những câu thơ xuất hiện hình ảnh “ mặt trời ” qua cách sử dụng phép tu từ tương tự. Chép những câu thơ đó và cho biết tên tác giả, tác phẩm. d. Trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ trên bằng một đoạn văn khoảng 10 – 12 câu, triển khai theo lối lập luận tổng phân hợp để thấy được dòng cảm xúc chân thành của tác giả trước khi vào

nét hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được trọn vẹn. Đó vừa là một lời ước nguyện (Trung với Đảng, hiếu với dân), vừa là một lời hứa thiêng liêng: DT VN mãi mãi trung thành với con đường CM mà Bác đã đặt ra. c. Trong một bài thơ em đã học trong chương trình ngữ văn 9 cũng có một khổ thơ dùng hình ảnh và phép tu từ điệp ngữ tương tự. Em hãy chép lại chính xác khổ thơ đó và nêu rõ tên tác giả, tác phẩm. Ta làm con chim hót Ta làm một nhanh hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xao xuyến.

  • Bài thơ: Mùa xuân nho nhỏ
  • Tác giả: Thanh Hải d. Học sinh có nhiều cách diễn đạt để hoàn thành đoạn văn nhưng cần biết triển khai lí lẽ và dẫn chứng hợp lí:
  • Về nội dung
  • Khổ thơ thứ tư đã diễn tả tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn được ở mãi bên lăng Bác.
  • Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt.
  • Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng.
  • Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ.
  • Đó là tâm trạng của muôn triệu con tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.
  • Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa một lần nào gặp Bác.
  • Muốn làm chim hót  âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành.
  • Muốn làm đoá hoa  toả hương thơm thanh cao nơi Bác yên nghỉ.
  • Muốn làm cây trung hiếu giữ mãi giấc ngủ bình yên cho Người.
  • Điệp từ “muốn làm” cùng với sự biểu cảm trực tiếp và gián tiếp  tâm trạng lưu luyến, ước muốn, sự tự nguyện chân thành của tác giả.
  • Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu bài thơ được khép lại bài thơ với một nét nghĩa bổ sung: cây tre trung hiếu. Sự lặp lại như thế đã tạo cho bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng làm đậm nét hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được trọn vẹn.
  • Về hình thức: sử dụng một câu bị động và khởi ngữ. Bài 5: Nói về bài thơ Viếng lăng Bác của tác giả Viễn Phương có nhận xét: “Có thể nói bài thơ là một thứ tiếng lòng giản dị, hồn nhiên mà âm vang của nó còn làm thổn thức lòng người mãi mãi”. (Tìm hiểu vẻ đẹp tác phẩm văn học Ngữ văn 9 – Lê Bảo – NXBGD, 2007) a. Em hãy nêu hoàn cảnh sáng tác và cảm xúc bao trùm của tác giả trong bài thơ. b. Chép nguyên văn khổ thơ diễn tả cảm xúc và suy nghĩ của tác giả khi vào trong lăng viếng Bác. c. Chỉ ra một hình ảnh ẩn dụ có trong khổ thơ mà em vừa chép và nêu ý nghĩa của hình ảnh ẩn dụ đó. d. Cho câu văn sau: “ Trong bài thơ Viếng lăng Bác, ngoại cảnh chỉ được miêu tả chấm phá vài nét, còn chủ yếu tác giả bộc lộ tâm trạng, cảm xúc yêu thương, ngưỡng mộ của mình đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh.” Hãy coi câu văn trên là câu chủ đề, viết tiếp khoảng 8 đến 10 câu văn để tạo thành một đoạn văn trình bày theo cách diễn dịch; trong đoạn văn có sử dụng câu chứa thành phần biệt lập và phép thế (gạch chân, chú thích thành phần biệt lập và từ ngữ dùng làm phép thế).

Gợi ý: a. HS nêu đúng:

  • Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1976 sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, tác giả ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ.
  • Cảm xúc bao trùm của tác giả trong bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác. b. HS chép đúng nguyên văn khổ thơ diễn tả cảm xúc và suy nghĩ của tác giả khi vào trong lăng viếng Bác: “ Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim!” c. - HS chỉ ra được một hình ảnh ẩn dụ có trong khổ thơ (Trời xanh, vầng trăng)
  • Nêu được ý nghĩa của hình ảnh ẩn dụ d. Yêu cầu: *** Hình thức:**
  • Phải đảm bảo một đoạn văn hoàn chỉnh, đủ số lượng câu, viết theo cách lập luận diễn dịch. HS biết giữ nguyên câu chủ đề đã cho và viết tiếp để hoàn thành đoạn văn. Lời văn có cảm xúc, không mắc lỗi diễn đạt, lỗi chính tả (0,5đ).
  • Sử dụng câu chứa thành phần biệt lập và phép thế phù hợp (0,5đ). *** Nội dung:** HS biết dùng lí lẽ và dẫn chứng để làm nổi bật được những tình cảm của tác giả:
  • Nỗi bồi hồi, xúc động khi được từ quê hương miền Nam ra thăm lăng Bác.
  • Lòng biết ơn chân thành, sâu nặng đối với Bác, sự ngưỡng mộ, thành kính, nỗi đau xót, tiếc thương…khi vào lăng viếng Bác.
  • Tình cảm lưu luyến khi phải từ biệt…

đồng quê. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị, ông đã phát hiện ra một nét đẹp thật đáng yêu của mùa thu vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.

  • Trong “Sang thu”, dấu hiệu đầu thu là hương ổi, làn gió và sương thu. Nhưng không phải là “sương thu man mác đầu ghềnh” của Tản Đà mà là “Sương chùng chình qua ngõ”- một hình ảnh lung linh huyền ảo. Không còn là những hạt sương mà đã là một màn sương mỏng nhẹ trôi, đang chuyển động chầm chậm nơi đường thôn ngõ xóm. “Chùng chình”là từ láy gợi hình diễn tả hành động chậm chạp như là cố ý chậm lại. Nhà thơ đã thổi hồn vào câu thơ khiến cho màn sương thu chứa đầy tâm trạng, như người đi còn vương vấn, ngập ngừng khi qua ngõ nhà ai b. Con ngêi (nhà thơ).
  • Cảm nhận phút giao mùa sang thu là sự ngỡ ngàng. Do ngỡ ngàng nên cả khứu giác, cả xúc giác và thị giác đều như mách bảo thu về mà vẫn chưa thể tin, chưa dám chắc. Từ “hình như” là sự phỏng đoán nửa tin, nửa ngờ, là cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên trong cái cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến của thi sĩ. Qua đó, ta hiểu tâm hồn nhà thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên, yêu hương thu với tình yêu tha thiết. 2. Khổ 2: Nhưng rồi mùa thu dần dần đến và hiện ra ngày càng rõ hơn trước mắt nhà thơ
  • Cánh chim trời vội vã bay đi, “có đám mây mùa hạ” còn vương lại. Và mây lưu luyến bắc chiếc cầu: “Vắt nửa mình sang thu”. Một liên tưởng thú vị, một hình ảnh đầy chất thơ. Người ta thường nói: khăn vắt vai, con đường mòn vắt ngang sườn núi….Hữu Thỉnh điểm vào bức tranh thu của mình một hình ảnh mới mẻ, gợi cảm: hai nửa của một đám mây thuộc về hai mùa. Không phải vẻ đẹp của mùa hạ cũng chưa hẳn là vẻ đẹp của mùa thu mà đó là vẻ đẹp của thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế và nhạy cảm đang say thời khắc giao mùa này.Trong “chiều sông thương”, ông cũng có một câu thơ tương tự về cách viết: Đám mây trên Việt Yên. Rủ bóng về Bố Hạ .” 3. Khúc giao mùa của không gian và thời gian khi sang thu còn được thể hiện ở chiều sâu suy ngẫm trong khổ cuối.
  • Khổ cuối nói về những biến chuyển của nắng, mưa, sấm trong lúc giao mùa với những nhận xét tinh tế của mét người am hiểu tường tận các hiện tượng thời tiết này: Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa + Lại thêm một sự đối lập: nắng vẫn còn nhưng mưa đã vơi dần. Mùa thu nắng sẽ nhạt dần, nhưng lúc giao mùa, nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng. Những ngày sang thu, đã ít đi những cơn mưa rào ào ạt và cũng bớt đi những tiếng sấm bất ngờ thường chỉ có trong mùa hạ. Các từ ngữ “vẫn còn – đã vơi dần – cũng bớt bất ngờ” vừa cho thấy, vẫn còn đó dấu ấn, vẫn còn đó dư âm của mùa hạ. Nhưng tất cả đã đi vào chừng mực, vào thế ổn định mang nét đặc trưng của mưa nắng phút giao mùa sang thu. Những câu thơ vừa tả cảnh, vừa kín đáo bộc lộ cảm xúc giao mùa của lòng người trong mối luyến giao thấm quyện với thiên nhiên.
    • Bài thơ khép lại bằng hai dòng thơ hàm chứa ý nghĩa: Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi Hai dòng cuối bài có hai tầng ý nghĩa: tả thực và ẩn dụ - gợi ta liên tưởng đến một tầng ý nghĩa khác – ý nghĩa về con người và cuộc sống. Những tiếng sấm bất ngờ của mùa hạ đã bớt đi lúc sang thu (cũng có thể hiểu: hàng cây không còn bị bất ngờ, bị giật mình vì tiếng sấm nữa), nhưng đó còn là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Và hàng cây đứng tuổi ở đây vừa gợi lên hình ảnh những hàng cây không phải là còn non, vừa gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc đời. Qua đó, con người càng trở nên vững vàng.

Hai câu kết đã khép lại bài thơ vừa là hình ảnh thiên nhiên sang thu, vừa là suy nghĩ chiêm nghiệm về bản thân, về con người, về đât nước. Nó vừa trang nghiêm chững chạc, vừa bâng khuâng khiêm nhường nhưng cũng đầy tự hào kiêu hãnh. Chính nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự: với hình ảnh này, ông muốn gửi gắm suy nghĩ của mình: khi con người đã từng trải thì cũng vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Bài thơ kết thúc, nhưng dư vị vẫn còn để người đọc tiếp tục nghĩ suy thêm về cái điều nhà thơ tâm sự. Kết luận :

  • “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu quê hương mà còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim mọi người.
  • Miêu tả mùa thu bằng những bước chuyển mình của vạn vật, Hữu Thỉnh đã góp thêm một cách nhìn riêng, một lối miêu tả riêng cho mùa thu thi ca thêm phong phú. B. Bài tập Bài 1. Bằng đoạn văn khoảng 8 câu, hãy phân tích sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về biến chuyển trong không gian lúc sang thu ở khổ thơ: Bỗng nhận ra hương ổi. Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về (Sang thu - Hữu Thỉnh) Gợi ý: a. Về hình thức: trình bày bài tập bằng một đoạn văn ngắn khoảng 8 câu, có thể dùng đoạn diễn dịch, quy nạp hoặc tổng hợp – phân tích - tổng hợp.
  • Đoạn văn diễn đạt mạch lạc, tự nhiên, không mắc lỗi về diễn đạt. b. Về nội dung:
  • Phân tích để thấy biến chuyển trong không gian được nhà thơ cảm nhận tinh tế qua hương ổi chín đậm, nồng nàn phả vào gió se, lan toả trong không gian và qua làn sương mỏng “chùng chình” chuyển động chầm chậm, nhẹ nhàng đầu ngõ, đường thôn.
  • Trạng thái cảm giác về mùa thu đến của nhà thơ được diễn tả ở các từ “bỗng, hình như” mở đầu và kết thúc khổ thơ, đó là sự ngạc nhiên thú vị như còn chưa tin hẳn, là tâm trạng ngỡ ngàng bâng khuâng, xao xuyến của một hồn thơ. Bài 2. Viết đoạn van khoảng 6 câu trình bày cách hiểu của em về hai câu thơ cuối bài “sang thu” (Hữu Thỉnh): Sấm cũng bớt bất ngờ. Trên hàng cây đứng tuổi”. Gợi ý: Trong đoạn văn này người viết cần trình bày được cách hiểu hai câu thơ cả về nghĩa cụ thể và về nghĩa ẩn dụ.
  • Tầng nghĩa cụ thể - nghĩa tường minh diễn tả ý: sang thu, mưa ít đi, sấm cũng bớt. Hàng cây không còn bị giật mình vì những tiếng sấm bất ngờ nữa. Đó là hiện tượng tự nhiên.
  • Tầng nghĩa thứ hai (ẩn dụ): suy ngẫm của nhà thơ về dân tộc, về con người: khi đã từng trải, con người đã vững vàng hơn trước những tác động bất ngờ của ngoại cảnh, của cuộc đời. Bài 3. Viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp của hình ảnh “đám mây mùa hạ” trong khổ thơ : Sông được lúc dềnh dàng. Chim bắt đầu vội vã. Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu”. Gợi ý : Đoạn văn có thể gồm các ý:
  • Hình ảnh được cảm nhận tinh tế kết hợp trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ.