






Study with the several resources on Docsity
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Prepare for your exams
Study with the several resources on Docsity
Earn points to download
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Community
Ask the community for help and clear up your study doubts
Discover the best universities in your country according to Docsity users
Free resources
Download our free guides on studying techniques, anxiety management strategies, and thesis advice from Docsity tutors
Tìm về quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ sau 1975
Typology: Papers
1 / 11
This page cannot be seen from the preview
Don't miss anything!
TẠP CHỈ KHOA HỌC ĐHQGHN, KHXH & NV, T.XXII, số 1, 2006
Chiến tra n h lạn h kết thúc với sự tan rã của Liên Xô và hệ thông xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã làm thay đổi về cơ bản tình hình t h ế giới. T rậ t tự th ế giới hai cực h ìn h th à n h từ sau T hế chiến II đã ta n võ. R anh giới phân chia các quốc gia theo ý thức hệ, vì vậy, cũng không còn nhiều ý nghĩa. Thời điểm mà những biến động m ạn h mẽ từ tình hình quốc tế dẫn tới sự kết thúc Chiến tra n h lạnh cũng là thời điểm kỷ niệm 15 năm kết thúc cuộc chiến tra n h tổng lực dài n hất trong t h ế kỷ XX. 15 năm sau cuộc chiến tra n h chông Mỹ, mặc dù, khi đó Việt Nam vẫn đang vật lộn vói những hậu quả tà n khôc trực tiếp từ cuộc chiến, còn nước Mỹ vẫn nhức nhối với vết thương tâm lý, nỗi đau về sự th ấ t bại lớn n hất trong lịch sử q u â n sự của họ; song đây lại là thời điểm mà quan hệ giữa hai nước b ắ t đầu có những thay đổi hướng tới sự hợp tác, giảm bót căng th ẳn g phù hợp với nhữ n g chiều hướng mới trong quan hệ quốc tế. Đàm phán chính thức bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ đã b ắ t đầu từ n ăm 1991, qua cuộc gặp gỡ giữa T hứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Lê Mai và TrỢ lý Ngoại trưởng Mỹ về Đông Á - T hái Bình Dương Solomon, là điểm khởi đ ầu cho h à n h trìn h 4 năm tiếp theo tiến tới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước vào năm 1995, đưa q u an hệ giữa hai nước vượt qua n h ữ n g n ăm còn lại của thê kỷ XX đầy
Bùi Thành N am (,)
sóng gió và bước vào th ế kỷ XXI với nhiều sự cảm thông. Bài viết này tập tru n g giải quyết một sô" vấn đề sau:
° ThS., Khoa Quốc tế học, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐHQGHN.
2 7
2 8 Bùi Thành Nam
đối đầu vốn làm cho t h ế giới kém hiệu quả do các cuộc chạy đua cả k in h tế lẫn qu ân sự làm kiệt quệ các nguồn lực, trở th à n h xu t h ế chi phối chính sách đốì ngoại của h ầ u h ế t các nước. Mục tiêu ổn định tìn h h ìn h an n in h chính trị của quốc gia và k h u vực là ưu tiên h à n g đầu của không chỉ là các nước p h á t triển mà còn cả các nưốc đ an g p h á t triển, bởi điểu đó không n h ữ n g giúp họ n â n g cao uy tín chính trị trê n trường quốc t ế m à còn tạo niểm tin cho các n h à đầu tư nước ngoài, nhữ n g ngươi có k h ả n ă n g thúc đẩy tăn g trưởng kinh tế.
T h ứ h a i , quá trìn h to àn cầu hoá diễn ra với tốc độ n h a n h hơn đã đ ặ t ra yêu cầu mới trong sự p h á t triể n của các nước, kinh tế trở th à n h n h â n tô" chiếm vị trí ngày càng q u a n trọng. Bởi lẽ, toàn cầu hoá tạo ra lợi ích lớn hơn trên nhiều lĩnh vực, trong đó q u a n trọ n g là các hoạt động thương mại và đầu tư to àn cầu. Sự hợp tác giữa các nước, vì vậy cũng th ay đổi hình th ái của nó, đi từ hợp tác chính trị đơn th u ầ n sang h ìn h thức hợp tác mới là chính trị - kinh tế. H ình th á i hợp tác mới này b ản th â n nó cũng tác động tích cực tới q u an hệ giữa các nước do phạm vi của sự hợp tác mở rộng. T h ứ b a , t r ậ t tự t h ế giới đã có nhiều th a y đổi. T rậ t tự hai cực m ấ t đi th ay th ế vào đó là nhữ n g quan điểm về t r ậ t tự th ế giới một cực đa tru n g tâ m (quan điểm chính trị * kinh tế) hoặc đa cực (quan điểm kinh t ế đơn thuần). Các q u a n điểm trên đều có sự th ừ a n h ậ n chung về vai trò ngày càng tă n g của n h ữ n g th ế lực mới trong kinh t ế to àn cầu. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là Đông Á, thòi điểm đó, đ an g nổi lên là một biểu tượng th à n h công trong quá
trìn h công nghiệp hoá. Trong khi Đông Au đang vướng vào những cú Shock của cải tố, châu Phi vẫn là bức tra n h tối m àu của sự nghèo đói, Nam Mỹ vẫn là cái “sân sau” của Mỹ thì sự lớn m ạnh của những “con rồng” H àn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore và những “con hổ” kinh tế Thái Lan, M alaysia đã biến khu vực này th à n h cục nam châm th u h ú t sự quan tâm của các n h à đầu tư và phân phôi toàn cầu. Với vai trò kinh tế ngày càng lớn, Đông Á cũng ngày càng nâng cao được vị th ế chính trị của mình. Cho dù tiếp cận nghiên cứu địa chính trị, địa chiến lược dưới những góc nhìn khác nhau song h ầu hết các n h à nghiên cứu đều n h ấ t trí đ ặ t Đông Á vào vị trí quan trọng trong m ắ t xích địa chính trị toàn cầu [4], Trước nhữ ng đòi hỏi cũng như yêu cầu của một t r ậ t tự th ế giỏi mới, các quốc gia đều điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng trá n h đốì đầu, tă n g cường hợp tác trên cơ sở đa dạng hoá các mỗĩ quan hệ quốc tế. Trong đó, mục tiêu phát triển kinh tế trở th àn h vấn đề trọng tâm trong chiến lược quốc gia nói chung cũng như trong quan hệ hợp tác giữa các nước nói riêng. Cuộc chạy đua về kinh tế và khoa học kỹ th u ậ t nhờ vậy cũng diễn ra rộng khắp do các nước đểu n h ậ n thức rõ về tầm quan trọng của sức cạnh tranh kinh tế và cố gắng đạt được vị trí có lợi n h ấ t trong cuộc chạy đua đó. Các nước tư bản p h át triển, mặc dù đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế nhưng bản th ân họ cũng cần thiết lập quan hệ với các nước có mức độ ph át triên th ấp hơn nhăm mỏ rộng thị trường tiêu th ụ những sản phẩm đang ngày càng thừ a ở xã hội tư bản. Đồng
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN. KHXH & NV, T.XXII, S ố Ị, 2006
3 0 Bùi Thành Nam
họ nên sự ủng hộ và giúp đỡ đổi vói Việt Nam là khó khăn. Chính vì vậy, việc tìm kiếm cơ hội hợp tác với các nước “bẽn ngoài ’ là sự lựa chọn duy n h ấ t cho Việt Nam.
Tháng 5.1988, Bộ Chính trị khóa VI đã ra Nghị quyết số 13 vể "nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới" nhấn m ạnh chính sách "thêm bạn bớt thù", đa dạng hóa quan hệ trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, cùng có lợi [3, tr.324]. Hội nghị Trung ương 6, khóa VI (tháng 3.1989) đã cụ thể hoá đường lối đồỉ ngoại thời gian này là chuyển m ạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị - kinh tế [3, tr.325]. Với cách tiếp cận mối trong tình h ìn h mới, Việt Nam đã lần lượt th u được nhiều th àn h tích hoạt động đối ngoại nhữ n g năm đầu thập niên 90 như trên đã trìn h bày, từng bước thoát ra khỏi t h ế cô lập trong bỗì cảnh tan võ của hệ thông XHCN, hội nhập từng bước vào khu vực và th ế giới. Những động th ái tích cực của Việt Nam và sự vận động của xu th ế hoà hoãn cũng khiến quan hệ Việt - Mỹ xích lại gần n h au hơn. Tiếp sau những phiên đàm phán chính thức về việc bình thường hoá quan hệ năm 1991, tháng 2.1994 Tổng thông Mỹ Clinton đã tuyên bô" dỡ bỏ lệnh cấm vận và th iết lập Cơ quan liên lạc giữa hai nước (được thực thi tháng 2.1995) tạo cơ sở cho tuyên bô' chính thức bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Mỹ vào ngày 11.7.1995. Q uan hệ giữa hai nước được th iết lập lại cũng là cơ hội cho nhiều dự định mỏi của cả hai bên được thực thi.
2. Quan hệ V iệt - Mỹ từ sau k h i bình thường hoá N h ử n g t h à n h tựu Nhìn lại 10 năm bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, tu y chưa hoàn toàn trở th àn h đôì tác một cách toàn diện song có thể n h ậ n th ấ y mảng sáng là m àu chủ đạo của mốì quan hệ này, được đánh dấu bằng những tiến bộ vượt bậc trong buôn bán và đầu tư, sự hợp tác rộng mở về quân sự, an ninh và sự chia sẻ những giá trị văn hoá. Nó được thể hiện qua các quan hệ hợp tác cụ thể: Quan hê chính tri, ngoai g ia o Khởi đầu bằng chuyến th ăm Việt Nam của Ngoại trưởng Mỹ W arren Christopher ngay sau khi bình thường hoá, quan hệ ngoại giao giữa hai nước luôn p h át triến m ạnh mẽ đ ạt được nhiều ý nghĩa thực tiễn, biểu hiện bằng các chuyến viếng thăm lẫn n h a u của quan chức cấp cao hai bên. Bên cạnh các chuyến th ăm Mỹ của nhiều đoàn cấp Bộ trưởng đem lại những hợp tác cụ thể trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, quân sự,... thì các chuyến th ăm Mỹ của các q u an chức cao cấp n h ấ t luôn tạo nền móng cho những quan hệ mới. Các chuyến th ăm của Phó Thủ tưóng Nguyễn M ạnh c ầ m (1998, 2000), Phó Thủ tướng Nguyễn T ấn Dũng (2001), Phó Thủ tướng Vũ K hoan (2003) đã thúc đẩy n h ận thức của cả hai bên trên nhiều lĩnh vực cùng quan tâm và quan trọng hơn cả là chuẩn bị cho những chuyên đi có tính chất quyết định hơn. Chuyến đi đậc biệt thầm Mỹ của Thủ tướng P h a n Văn Khải th á n g 6.2005, nhân dịp kỷ niệm 30 năm kết thúc chiến
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, KHXH & N V , T.XXII, S ố Ị , 2006
Quan hệ Viôt-Mỹ: Từ bình thường hoá đến phát triển (^) 3 1
tran h và 10 năm bình thường hoá quan hệ đã tạo ra bưóc ngoặt mới trong quan hệ giữa hai nước như thừa n h ậ n chung trong chính giới Mỹ “Sỉ/ hiện diện của N gài Thủ tướng tại W ashington ngày hôm nay , 10 năm sau khi hai nước bình thường hoá cùng các đại diện Việt N am và các vị khách M ỹ chứng tỏ: nhữ ng nước từng ở hai chiến tuyến có th ể trở thành đối tác và bạn òè”(1). Chuyên đi này cũng đặt ra nền móng mới trong quan hệ hai nưốc trê n cơ sở những n h ậ n thức chung được gợi mở “30 năm sau khi chiến tranh kết thúc , chúng ta nên hướng tới tương lai và n h ữ n g tiềm năng p h á t triển chứ không p h ả i nh ìn lại quá k h ứ đau buồn”{2). Phía Mỹ cũng đã tổ chức nhiều đoàn cấp cao th ăm Việt Nam. Đáng chú ý là các chuyên viếng thăm của Ngoại trưởng W.Chistopher (1995), Ngoại trưởng M.Albright (1997), Cô" vấn an ninh quốc gia A. Lake (1996), cựu Tổng thông G. Bush (1995), Bộ trưởng Quốc phòng W.Cohen (2000), Ngoại trưởng c. Powell (2001), và đặc biệt là chuyên thăm của Tổng thông Clinton th án g 11.2000. Các chuyến viếng thăm nói trên một m ặt chứng tỏ dấu hiệu ngày càng tốt đẹp hơn trong q u an hệ giữa hai nưóc, m ặt khác các chuyên th ăm đó còn tập trung giải quyết một sô" vấn đề về an ninh chính trị n hằm trực tiếp tục khai thông mối quan hệ đã được kết nối. Thông qua các chuyến viếng thăm lẫn nhau, nhận thức chung về giá trị của các vấn đề tôn giáo, d ân chủ,... cũng được đôi bên hiểu
(1) “Từ hai chiến tuyến thành bạn bè”, Phát biểu của TNS Mỹ John McCain trong buổi tiệc chiêu đãi đoàn Thủ tướng Việt Nam trong chuyến thăm Mỹ, Việt Nam Net 22/6/ (2) “Từ hai chiến tuyến thành bạn bè", tài liệu đã dẫn
rõ hơn trên tinh th ầ n tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau. Trong bối cảnh cuộc chiến chông khủng bô" đang có nguy cơ lan rộng, hai bên có cùng nhận thức về sự nguy hiểm của chủ nghĩa khủng bô" và có những động thái hợp tác nhằm ngăn chặn sự b àn h trướng của nó. Đầu năm 2005 Mỹ đã đặt “Tổ chức Việt Nam cách mạng giải phóng”, một tổ chức chông phá Việt Nam do một sô" Việt kiều phản động th à n h lập vào danh sách các nhóm khủng bô" cần loại trừ. Hai bên cũng tích cực giải quyết các vấn đề do cuộc chiến tra n h để lại. Từ 1988 đến 2004 Việt Nam đã trao trả Mỹ 827 bộ hài cốt quân n h â n Mỹ thiệt mạng trong chiến tr a n h (3), chuyên thăm năm 2000 của Tổng thông Clinton cũng đã giúp Việt Nam có được 360 nghìn trang tư liệu về các trường hợp m ất tích và hy sinh của quân n h â n Việt Nam. Vấn đề người m ất tích trong chiến tran h được tích cực giải quyết là cơ sở cho các hoạt động đối ngoại khác. Mỹ ủng hộ Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như toàn cầu thông qua việc Việt Nam tham gia Diễn đàn kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương APEC (năm 1998); và tuyên bô" ủng hộ Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại T hế giói WTO (“nền kin h tế Việt N a m đã có những bước p h á t triển m ạnh mẽ về căn bản và chúng tôi đả thảo luận về lời đề nghị gia nhập WTO của Việt N a m ”(4) tuyên bô" của Tổng thống Bush trong buổi tiếp kiến Thủ tướng P h an Văn Khải n h ân chuyến thăm Mỹ th án g 6.2005).
(3) http://www..mofa.gov.vn (4) http://whitehouse.gov
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, KHXH & NV, T.XXII, S ố 1 :
Q uan hệ Viôt-Mỹ: Từ bình thường hoá đến phát triển (^) 3 3
bình thường hoá quan hệ ngoại thương đã tăng hơn 5 lần, đạt 1.188 triệu USD(6), trở th à n h nền móng thúc đẩy các cam k ết về hợp tác ở mức độ cao hơn. Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam
(6) http://www.ustr.gov (7) Bộ Thương mại Mỹ, http://doc.gov (8) http://www.vnn.vn/10namvietmy/tulieu/
các máy móc, th iế t bị công nghiệp, hàng điện tử, máy bay và dược phẩm. Bên cạnh hoạt động thương mại, đầu tư của Mỹ vào Việt Nam cũng bắt đầu tăn g mạnh. Kể từ sau khi thực thi BTA đến nay đầu tư trực tiếp FDI của các doanh n h â n Mỹ vào Việt Nam đã tăng hơn 400% (Tính đến h ế t 2004, tổng sô" đã có 256 dự án với số vốn 2,013 tỉ USD đầu tư vào Việt Nam) (9). Cùng vỏi các dòng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trực tiếp, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cũng bắt đầu tiếp cận thị trường được đánh giá là giàu tiềm năng vói tốc độ tăn g trưởng kinh tế 7%/năm. Hiện đã có hơn 800 doanh nghiệp Mỹ đang hoạt động tại Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Dòng khách du lịch Mỹ đến Việt Nam cũng tăng n h a n h hàng năm, tạo điều kiện tốt hơn cho những hợp tác hiện tại cũng như tương lai. Tính đến hết 11/2004 khách du lịch Mỹ đến Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ hai (chỉ sau khách du lịch T rung Quốc) đạt 247.221 lượt người, tăn g 27,7% so với năm 2003(10). Đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách cả hai phía, cuỗi năm 2004 chuyên bay đầu tiên từ Mỹ đến Việt Nam kể từ sau khi kết thúc chiến tran h đã hạ cánh xuống T hành phô" Hồ Chí Minh là cơ hội mói cho những nỗ lực mở rộng hợp tác du lịch từ hai phía, cũng như những cơ hội hợp tác làm ăn khác. Thôhg qua các cuộc tiếp xúc qua kênh du lịch, n h ân dân hai bên cũng đã thông cảm với n h a u hơn, sẵn sàng gác bỏ quá
(9) Bộ Kế hoạch và Đầu tư ( 10 ) http://www.dei.gov.vn/vi/contents/c_vietnam/i_Bc/vn_hk y/b_Sc/
Tạp chi Khoa học ĐHQGHN, KHXH & NV, T.XXIỊ, SỔI, 2006
3 4 Bùi Thành Nam
khứ để xây dựng một tương lai mới trong quan hệ giữa hai nước (một phong trào mói về lòng yêu nưỏc và là biểu hiện cụ thể giữa quan hệ m ang tính n h ân dân giữa hai nước được dấy lên ở Việt Nam và Mỹ qua câu chuyện của người cựu chiến binh Mỹ và cuốn n h ậ t ký của liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm).
Những ha n c h ế Nhìn chung, sau 10 năm bình thường hoá quan hệ cả hai nước Việt N am và Mỹ đều đã đạt được những lợi ích cụ thể trên nhiều lĩnh vực. Tuy vậy vẫn còn nhiều rào cản mà hai nước cần vượt qua để hướng tối một tương lai rộng mở hơn. Những rào cản này x uất p h á t từ thực tiễn là nhiều m ặt hợp tác vẫn chưa có tiếng nói chung.
T hứ n h ấ t , còn chưa có sự hiểu biết đầy đủ giữa hai bên về các giá trị về dân chủ, nhân quyền hay quan niệm về tự do tôn giáo. Ngày 15/9/2004 Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra báo cáo về tình hình tự do tôn giáo th ế giới, trong đó xếp Việt Nam vào danh sách các nước cần đặc biệt quan tâm về tự do tôn giáo.
Thứ h a i , cho dù hai bên đã có những tiến bộ trong việc giải quyết h ậ u quả do chiến tra n h để lại như ng phía Mỹ mới chỉ tập tru n g sự quan tâm chủ yếu vào các vấn đề người m ấ t tích (MIA), tù binh chiến tra n h (POW)- Các vấn đề khác, đặc biệt là vấn đề n ạn n h â n chất độc da cam ở Việt Nam còn chưa được chính phủ Mỹ đề cập tới hoặc né trán h , phủ nhận. Sự quan tâm “một chiều” này khó làm cho sụ cảm thông giữa hai bên có ý nghĩa đầy đủ hơn.
T h ứ ba , lợi ích kinh tế đã đ ạt được còn khiêm tổn với tiềm năng của cả hai bên. Hiện nay h àn g xuất k h ẩ u của Việt Nam mới chỉ chiếm 0,4% tổng kim ngạch nhập khẩu của thị trường tiêu th ụ lớn n h ấ t th ế giới vối kim ngạch n h ậ p khẩu lên tới 1.250 tỷ USD. Trong lĩnh vực đầu tư, Mỹ cũng là nhà đầu tư lớn n h ấ t trên th ế giới nhưng ở Việt Nam các n h à đầu tư Mỹ chỉ đứng ở vị trí thứ 11, còn thấp hơn một sô" n h à đầu tư từ các nước nhỏ trong khu vực ASEAN. T h ứ tư, mặc dù quy mô thương mại của Việt Nam còn nhỏ trong cán cân thương mại Mỹ nhưng đã x u ấ t hiện những cuộc tra n h chấp thương mại giữa doanh nghiệp hai nước. Các vụ kiện tụng liên quan đến hầu hết các m ặt h àn g xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như cá basa, tôm, dệt may, giày dép,... được phán quyết chưa thực sự công bằng ở các toà án Mỹ gây ra tâm lý e ngại đối vối đội ngũ doanh nhân về thực chất phát triển mốì quan hệ này. Them vào đó quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam vẫn đang gặp rào cản lớn n h ấ t là Mỹ do những đòi hỏi mở cửa thị trường vượt quá khả năng chịu đựng của một nền kinh tế đang còn chậm p h át triển.
3. Triển vọng quan hệ V iệt - Mỹ Nhìn lại 10 năm bình thường hoá quan hệ giữa hai nưốc Việt N am và Mỹ có thể n h ận th ấy những n h â n tô' thúc đẩy sự thiết lập lại quan hệ giữa hai nước tiếp tục vận động cùng chiều mối quan hệ này và ngày càng trỏ nên rõ ràng hơn. Bên cạnh đó sự vận động nội tại của cả hai nước cũng tạo ra những tiền đề mới để quan hệ giữa hai bên có
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, KHXtì & N V , T.XX1Ỉ, S ố 1, 2006
3 6 (^) Bùi Thành Nam
như sự mặc cảm và chông đối của một bộ phận Việt Kiều đang được tháo gõ bằng các chính sách cởi mở hơn của Việt Nam. P h á t biểu tại buổi họp báo sau khi kết thúc hội đàm với Tổng thông Mỹ G.W.Bush trong chuyến thăm được coi là lịch sử, Thủ tưỏng P h an Văn Khải đã n h ấn m ạnh “Tôi tin rằng chuyến đi này tới M ỹ sẽ giúp nâng quan hệ giữa hai quốc gia lẽn m ột tầm cao mới”
mối đổi với các nhà đầu tư Mỹ. Bên cạnh đó, lộ trìn h thực hiện Hiệp định thương mại song phương BTA đã và đang được thực thi nghiêm túc sẽ là cơ sở cho nhiều doanh nghiệp Mỹ với các lĩnh vực kinh doanh đa dạng có thể xuất hiện ở Việt Nam thời gian tới.
là bạn thân" trở th àn h thực tiễn.
(13) http://www.vnn.vn/10namvietmy/chuyenthammy/2005/06/ (14) Quan hệ Việt Mỹ: “Trước là bạn, sau là bạn thân" http://www.vnn.vn/10namvietmy/chuyenthammy/2005/06/460943/
Tạp chí Khoa học ĐtìQGHN, KHXH & NV, T.XXI1, S ố Ị, 2006
Quan hệ Viẽt-M ỹ: Từ bình thường hoá đến phát triển 3 7
VNU. JOURNAL OF SCIENCE, soc., SCI., HUMAN, T.XXII, N01, 2006
MA. Bui Thanh Nam Departments of International Studies, College o f Social Sciences and Humanities, VNU
When the Cold W ar ended, it also m arked a new step in the relationship between
and US relations was affected bv the new international context. In 1991, Vietnam and US sat together to negotiate a normalization process. It was 10 year since officially normalization in 1995 significant progress has been made in this special relation: from normalization to development cooperation. The progress was culm inated when
Tạp chi Klioa học ĐHQGHN, KHXH & NV, T.XXII, Sô 1, 2006